Tuần sanFlowchart: Document: Số 
133
20/04/2008

  

 


 

                                                                                   

TIN VUI

  

 


 

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               

www.tinvui.org
bantreconggiao@yahoo.com

  

 

 

 


 

MỤC LỤC

 

 SỐNG LỜI CHÚA..

Chúa Nhật V Phục Sinh A..

Ga 14, 1-12.

ĐỨC GIÊSU MẶC KHẢI VỀ CHÚA CHA..

TU ĐỨC..

NIỀM VUI TRỞ VỀ..

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.

Vài nhận định tổng quát về chuyến viếng thăm của ÐTC tại Hoa Kỳ.

Lần đầu tiên trong lịch sử Nga đài truyền hình nhà nước truyền đi thông điệp của Đức Giáo Hoàng.

Phỏng vấn bà Mary Ann Glendon, tân đại sứ Mỹ về chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI 

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐÍCTÔ XVI.

Tường thuật chuyến viếng thăm của ÐTC tại Hoa Kỳ.

ngày thứ hai

Đức Thánh Cha viếng thăm tại Hoa Kỳ: ngày 16 và sáng 17-4-2008.

Giáo phận Hồng Kông hủy bỏ chuyến hành hương Sheshan để tham gia ngày cầu nguyện do Ðức Thánh cha kêu gọi và chuẩn bị cho tuần cửu nhật

ĐTC tưởng nhớ sự đóng góp lớn lao cho Phúc Âm của ĐHY Ernesto, Tổng giám mục Mexicô.

LIÊN TU SĨ TPHCM BẦU BAN ĐIỀU HÀNH NHIỆM KỲ 2008 - 2011.

Biên Bản Cuộc Họp Ban Tổ Chức Năm Thánh 2010.

Đoàn Đại Chủng viện Xuân Bích (Huế) thăm Toà Giám Mục Vinh và Đại Chủng viện Vinh - Thanh.

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

Bài nói chuyện của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đà Lạt nhân ngày Quốc tế cầu nguyện cho ơn gọi

Chân trời rộng mở.

ÍT MÀ NHIẾU..

TÀI LIỆU TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN NHA TRANG..

BÀI VI.

LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN..

SỐNG CHỨNG NHÂN..

TRINH NỮ RWANDA, THÀ CHẾT CHỨ KHÔNG PHẠM TỘI.

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH..

CHIẾC CÒNG SỐ 8.

Học cách kiềm chế cơn giận.

ĐỌC SÁCH..

DẤU CHÂN CỦA THẦY..

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật V Phục Sinh A

Ga 14, 1-12

"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người". Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "<Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê?> Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha'? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha". Đó là lời Chúa.

 

ĐỨC GIÊSU MẶC KHẢI VỀ CHÚA CHA

 

Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy, một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong nước phải vào hoàng cung. Vua lệnh cho các giám mục trong một tuần lễ phải chứng minh cách cụ thể về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nếu không, tất cả sẽ sẽ khép tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm sao các giám mục là người phàm lại có thể làm cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa là Đấng vô hình được ? Rồi càng gần đến hết hạn định, các giám mục lại càng bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ  trẻ nghe biết câu chuyện, liền đến xin phép được thay thế các giám mục để chỉ cho nhà vua nhìn thấy Thiên Chúa. Đùng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng các quần thần đến một ngọn đồi vào giữa trưa nắng gắt. Anh chỉ tay về phía mặt trời và tậu vua rằng : “ Muôn tâu bệ hạ, thảo dân xin bệ hạ nhìn theo ngón tay của thảo dân, thì sẽ thấy được Thiên Chúa”. Nhà vua và các quan cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng ngón tay của anh tu sĩ kia. Nhưng không ai có thể nhìn được vì bị chói mắt. Bấy giờ vua liền nổi giận ra lệnh chém đầu anh tu sĩ vì cho rằng mình đã bị anh ta lừa. Bấy giờ vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua và tâu rằng : “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi xem bằng được Thiên Chúa. Nhưng mặt trời kia chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ không thể nhìn xem được, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng và vô cùng cao cả được ? Thiên Chúa luộn hiện hữu, nhưng vì Ngài vô hình, nên người ta không thể xem thấy Ngài bằng con mắt xác thịt, mà chỉ thấy Ngài bằng con mắt đức tin thôi”.

 

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã trả lời cho Philípphê, khi ông đòi được xem thấy Chúa Cha như sau : “Thầy ở với anh em bầy lâu, thế mà anh Philípphê anh chưa thấy Thầy ư ?Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ngày nay muốn nhìn thấy Thiên Chúa chúng ta hãy nhìn vào Giêsu,Vì Người chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23). Người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân xác phàm nhân chúng ta. (x.Ga 1, 14).

 

Trở thành Kitô hữu tức là thành một Đức Giêsu khác trước mặt tha nhân. Mỗi người chúng ta phải sống thế nào để có thể nói được tương tự như Đức Giêsu rằng : Ai biết tôi. Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu. Đức Giêsu không những chỉ đường mà còn là Con Đường độc nhất dẫn đưa loài người về trời với Thiên Chúa như Người đã nói : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Từ nay, chỉ duy con đường Giêsu mới có thể dẫn đưa chúng ta lên trời được. Tông đồ Phêrô cũng khẳng định trước Thượng hội đồng Do thái như sau : “Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ. Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4, 11-12).

 

Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một cuộc đời tận hiến và khiêm nhường phục vụ. Cuộc đời của Chúa phải trở thành con đường về trời của mỗi tín hữu chúng ta. Khi suy niệm lời Người, là chúng ta chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa và biết được thánh ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì. Đàng khác, nếu chúng ta đã đi trên Con đường Giêsu để lên trời thì chúng ta cũng phải trở nên con đường cho anh em lương dân tìm về với Chúa. Hầu khi gặp gỡ chúng ta, họ sẽ nhận biết Chúa Giêsu đang ở trong chúng ta và tin theo Người. Rồi nhờ Người, với Người, và trong Người, họ sẽ gặp được Chúa Cha và sau này còn được tham phần vào hạnh phúc Nước Trời đời đời với chúng ta.

 

Tuy trên thế giới có nhiều đạo, nhiều con đường dẫn đưa người ta hướng về Thiên Chúa là nguồn Chân Thiện Mỹ, và đạo nào cũng đòi người ta phải ăn ngay ở lành, nhưng những đạo khác chỉ loài người suy nghĩ khám phá ra nên chỉ giúp người ta biết được phần nào sự thật về Thiên Chúa và có giá trị tương đối. Chỉ duy có đạo Công giáo do chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người giảng dạy và trở thành con đường duy nhất dẫn đưa loài người lên trời như Người đã nói : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Do đó, sau khi được ơn nhận biết và tin yêu Chúa, chúng ta có bổn phận phải chia sẻ hạnh phúc ấy với những người chưa biết Chúa để họ tin vào Chúa Giêsu và bước theo con đường Giêsu này mà lên trời với chúng ta.

 

Trong cuộc sống, mỗi khi đứng giữa ngã ba đường, không biết chọn đi con đường nào chính xác nhất để được hạnh phúc đời đời, không biết cách ứng xử thế nào cho đẹp lòng Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì trong hoàn cảnh này ? “ rồi tìm một đoạn Thánh Kinh. Chắc chắn Chúa sẽ dạy cho chúng ta biết phải làm gì cụ thể trong từng hoàn cảnh.

 

Lm. Đan Vinh

Gx. Sao Mai (Tân Bình)

Mục lục

 

TU ĐỨC

 

NIỀM VUI TRỞ VỀ

 

Trong đời sống đạo, người tín hữu có nhiều niềm vui. Niềm vui thuộc nhiều loại khác nhau, thuộc nhiều thời gian khác nhau.

 

Ở đây, tôi xin chia sẻ về niềm vui trở về. Trở về có nhiều hình thức, như :

 

Từ tình trạng tội lỗi trở về tình trạng đạo đức.

 

Từ tình trạng nguôi lạnh trở về tình trạng sốt sắng.

 

Từ tình trạng an thân và hưởng thụ trở về tình trạng dấn thân và từ bỏ.

 

Từ tình trạng tự mãn phô trương trở về tình trạng khó nghèo khiêm tốn.

 

Và nhiều thừ trở về khác.

 

Trở về là bỏ cái không tốt để tới cái tốt, mà đáng lẽ mỉnh phải chọn. Cái tốt đó là Tin Mừng Phúc Âm, là chính Chúa Phục sinh.

 

Mấy nét của niềm vui trở về

 

Mỗi lần người tín hữu trở về như vậy là mỗi lần họ cảm nhận được niềm vui. Niềm vui này rất thiêng liêng, được chia sẻ từ Chúa Giêsu, do Chúa Thánh Thần thúc đẩy, và hướng về  Chúa Cha.

 

Đoạn Phúc Âm sau đây giúp chúng ta dễ hiểu : “Nhóm Bảy Mươi hai trở về, hớn hở nói với Chúa Giêsu : Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục. Đức Giêsu bảo các ông : Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống…Tuy nhiên, các con chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục các con, nhưng hãy mừng vì tên các con đã được ghi trên trời…

 

Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói : Lạy Cha, là Chúa Trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10, 17-212)

Khi đem bài Phúc Âm trên đây dọi vào mọi biến cố trở về, tôi thấy Chúa ban cho  người trở về niềm vui có ba đặc tính :

 

-          Vui, vì được thoát khỏi quyền lực ác thần.

 

Thực vậy, lòng con người có một vùng tối. Ác thần ra vào đó, để phá Nước Trời trong con người. Nhưng khi con người được ơn trở về, vùng tối đó bị rút nhỏ lại, quyền lực ác thần bị hạ.

 

-          Vui, vì tên của người trở về được ghi trên trời.

 

Đó là ơn rất trọng. Càng trở về, tên họ càng được ghi sâu ghi đậm trên trời.

 

-          Vui, vì họ thấy mình yếu đuối hèn mọn, nhưng được Chúa xót thương.

 

 So sánh  mình với  những  bậc giàu sang thông thái, người trở về thấy mình được yêu thương đặc biệt.

 

Một chứng từ sống động

 

Những năm gần đây, tôi được may mắn tham dự vào sự trở về của hai tín hữu. Cả hai cùng rất hận thù Hội Thánh. Cả hai cùng thuộc một nhóm coi việc trả thù các tư tế là lẽ sống. Cả hai cùng phục tùng một quyền bính có  chủ trương phải căm nghét triệt hạ giáo phẩm, giáo sĩ. Họ hăng say thu gom các lửa ghen ghét, để việc trả thù của họ được càng ngày càng lan rộng và quyết liệt.

 

Nhưng sự người ta không làm được, thì Chúa đã làm. Dần dần họ đã được Chúa đổi lòng. Họ đã trở về. Hành trình trở về của họ là là rất dài và rất cam go. Hôm nay, họ đã ra đi. Họ chết trong ơn trở về.

 

Trong những gì họ viết cho tôi, tôi thấy họ đã cảm được niềm vui lạ lùng do ơn trở về. Niềm vui lạ lùng có thể được được hiểu như sự trút bỏ một gánh rất nặng, để được bồi dưỡng bởi lòng hiền lành và khiêm nhường của Chúa phục sinh. Họ không nói rõ, nhưng những gì họ chia sẻ đã gợi ý cho tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu phán sau đây : “Tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy  sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. An hem hãy mang lấy ách của Thầy, và học với Thầy, vì Thầy có long hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn an hem sẽ được  nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của Thầy  thì  êm ái, và gánh của Thầy thì nhẹ nhàng” ( Mt 11, 28-30).

 

Đem bài Phúc Âm trên đây soi vào trường hợp trở về của hai người đó, tôi thấy, khi trở về, họ đã rất vui.

 

-          Họ vui vì thoát khỏi gánh nặng quyền lực Satan.

 

-          Họ vui vì cảm thấy mình được đưa vào bầu trời thiêng liêng của Chúa.

 

Sự trở về của hai người tín hữu thân thương đó đã giúp tôi suy nghĩ nhiều về sự sám hối. Nó trở thành nguồn vui âm thầm cho tôi trong  những ngày tôi đang cần trở về với Chúa một cách sâu sắc.

 

Niềm vui trở về của mục vụ nơi tôi

 

Sự trở về của tôi lúc này tập trung vào lời Chúa Giêsu đã cầu nguyện xưa : “Lạy Chúa… nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha mọi đàng” ( Mt 14, 36).

Tôi trở về với thánh ý Chúa.

 

Thánh ý Chúa là : Tôi phải cậy nhờ ơn thánh trong sống đạo và truyền đạo.

 

Cậy nhờ vào ơn thánh Chúa là phải tập trung vào Đức Kitô.Thay thế trung tâm Chúa Giêsu bằng những trung tâm khác là sai. Phải trở về.

 

Cậy nhờ vào ơn thánh Chúa đòi phải cầu nguyện và sám hối. Thay thế cầu nguyện và sám hối bằng những tổ chức ổn ào là sai. Phải trở về.

 

Cậy nhờ vào ơn thánh đòi phải mộ mến Mình Thánh. Thay thế Mình Thánh bằng những tôn sùng khác là sai. Phải trở về.

 

Cậy nhờ vào ơn thánh đòi phải chấp nhận mầu nhiệm thánh giá. Chối từ mầu nhiệm thánh giá là sai. Phải trở về.

 

Cậy nhờ vào ơn thánh đòi phải trung thành với điều răn mới của Chúa. Thay thế điều răn mới của Chúa bằng những điều răn mới của bất cứ ai là sai. Phải trở về.

 

Ngoài ra, ý Chúa là mọi sự tôi có, mọi sự tôi nhận, mọi sự tôi cho đi, mọi sự tôi chịu, tất cả đều phải là những tuyên xưng.Tôi tuyên xưng niềm tin  của người con hèn mọn đang trên đường về với Cha. Niềm tin đó pha trộn niềm vui. Niềm vui này riêng tư, nhưng vẫn có thể kể lại như một chia sẻ, mà mọi người con Chúa đều có quyền được tham dự.

 

ĐGM GB Bùi Tuần

Mục lục

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Vài nhận định tổng quát về chuyến viếng thăm của ÐTC tại Hoa Kỳ

Ký giả Antoine-Marie Izoard, làm việc cho hãng tin I-Media tại Roma, cho rằng "những điểm nổi bật" của chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Ðức Bênêđitô XVI sẽ là:

1. tái xác nhận giáo lý của giáo hội công giáo trong một quốc gia đa tôn giáo.

2. trình bày sự đáp ứng đối với những gương xấu lạm dụng tình dục đang gây giao động trong giáo hội công giáo tại Hoa Kỳ trong những năm gần đây.

3. tái xác nhận tính cách không thể thay đổi của những nhân quyền;

4. và nói lên lập trường của giáo hội công giáo đối với những sinh hoạt chính trị hoa kỳ trên bình diện quốc gia và quốc tế.

Những điểm nổi bật này được thực hiện trong bốn biến cố cao điểm của chuyến viếng thăm như:

1. Gặp gỡ với Tổng Thống Hoa kỳ tại Toà Nhà Trắng, trong thời gian của những tranh cử cho cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 2008.

2. Gặp gỡ với các giám mục Hoa Kỳ, trong hoàn cảnh giáo hội đang trải qua những khó khăn do những gương xấu lạm dụng tình dục, gây ra.

3. Ðọc diễn văn tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, trong khung cảnh kỷ niệm 60 năm công bố Hiến Chương quốc tế về Nhân Quyền.

4. Cầu nguyện cho Hoà Bình tại "Khoảng Ðất Trống", nơi Toà Tháp Ðôi, Trung Tâm Thương Mại Thế Giới, bị khủng bố phá tan bình địa, ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Ngoài ra, hãng thông tấn công giáo Thuỵ Sĩ, APIC, còn nhắc rằng chuyến viếng thăm Hoa kỳ của ÐTC diễn ra trùng với thời gian ÐTC mừng sinh nhật thứ 81 vào ngày 16 tháng 4, và trùng với kỷ niệm ba năm ÐTC được chọn lên kế vị thánh Phêrô trên ngai toà Roma, ngày 19 tháng 4.

Nhưng quan trọng hơn cả, --- và theo lời ÐTC đã nói trước trong Sứ Ðiệp gởi dân chúng Hoa Kỳ trước chuyến viếng thăm, --- thì mục tiêu cuối cùng của chuyến viếng thăm là để rao giảng sự thật căn bản: Chúa Kitô là Hy Vọng của con người. Chân lý này đã được ÐTC nhắc đến trong thông điệp thứ hai của ngài về Ðức Cậy Trông, Spe Salvi. Như thế, chủ đề về niềm Hy Vọng Kitô sẽ có mặt trong những diễn văn của ÐTC trong nhiều dịp khác nhau. Quả Thật, như ÐTC đã quả quyết trong Sứ Ðiệp gởi dân chúng Hoa kỳ, hơn bao giờ hết thế giới hôm nay đang cần niềm Hy vọng, hy vọng hoà bình, hy vọng công lý, hy vọng tự do. Nhưng, không thể nào có hy vọng, nếu không tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa.

Lần đầu tiên trong lịch sử Nga đài truyền hình nhà nước truyền đi thông điệp của Đức Giáo Hoàng

Hôm nay, 16/4/2008, tại Cộng Hòa Liên Bang Nga đã xảy ra một biến cố chưa từng bao giờ xảy ra: đài truyền hình nhà nước truyền đi một bộ phim tài liệu về Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI và thông điệp của ngài nói bằng tiếng Nga với Đức Thượng Phụ Alexei II của Chính Thống Giáo Nga, với các tín hữu Chính Thống Giáo, với các Giám Mục Công Giáo, các tín hữu Công Giáo và tất cả những ai sống trên lãnh thổ Nga. Trong thông điệp gởi cho người Chính Thống Giáo Nga, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải có đối thoại chân thành và xây dựng giữa Chính Thống Giáo và Công Giáo.


Một điều có ý nghĩa hơn nữa là bộ phim tài liệu này được chiếu đúng vào ngày sinh nhật thứ 81 của Đức Giáo Hoàng.


Bộ phim tài liệu này đã được tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ tài trợ và được đài truyền hình Vesti của nhà nước Nga thực hiện. Ngoài sự tham gia của đài truyền hình Vesti, bộ phim nhận được sự tham gia của Blagovest Media, ở St. Petersburg và Catholic Radio and Television Network của Công Giáo Đức.


Nội dung bộ phim trình bày những giai đoạn chính trong cuộc đời của Đức Thánh Cha. Đức Ông Georg Ratzinger, bào huynh của Đức Giáo Hoàng cũng đóng góp một phần trong bộ phim này qua một cuộc phỏng vấn. Đây là một điều Đức Ông hiếm khi thực hiện.


Ông Peter Humeniuk, cố vấn của tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ về nước Nga cho biết là đa số người Nga xa lạ với tiểu sử của các Đức Giáo Hoàng. Ông Peter nhận định rằng cả Rôma lẫn Mạc Tư Khoa đều nhận thức rõ là “bộ phim và thông điệp của Đức Thánh Cha là một biểu tượng đẹp cho tiến trình xích lại gần nhau giữa hai Giáo Hội”.


“Trong suốt cuộc hành trình xuyên qua nước Nga, tôi đã gặp nhiều người bày tỏ ao ước có được những thông tin khách quan và trung thực về Đức Giáo Hoàng và về Giáo Hội Công Giáo. Tôi hy vọng bộ phim này đáp ứng được những mong mỏi này”.


Ông Peter Humeniuk tiết lộ thêm là bộ phim được sự hỗ trợ của Chính Thống Giáo Nga, đặc biệt là của cha Vsevolod Chaplin, phó chủ tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thánh Công Đồng Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa. Đặc biệt, bộ phim được cha Igor Vyzhanov, thư ký phân ban Đối Thoại với Công Giáo của Ủy Ban Đối Ngoại Thánh Công Đồng Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa, thuyết minh.


Về phía Công Giáo, Đức Tổng Giám Mục Antonio Mennini, sứ thần Tòa Thánh tại Nga đã đóng một vai trò quan trọng.

Mục lục

 

Phỏng vấn bà Mary Ann Glendon, tân đại sứ Mỹ về chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Chúng tôi xin gửi tới qúy vị nhận định của bà Mary Ann Glendon, tân đại sứ Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh, về chuyến viếng thăm này của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Bà Mary Ann Glendon sinh trưởng tại Dalton, tiểu bang Massachusetts, năm nay 70 tuổi, có ba con gái và đã từng là giáo sư luật so sánh tại phân khoa Luật của đại học Havard. Bà cũng đã là Chủ tịch Hàn Lâm Viện Tòa thánh về các Khoa Học Xã Hội, và đã là trưởng Phái đoàn Tòa Thánh tham dự Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc Kinh hồi năm 1995. Từ tháng 2 năm 2008 bà đã được chỉ định làm tân đại sứ Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh.

Hỏi: Thưa bà đại sứ, đây là lần đầu tiên Đức Thánh Cha Biển Đức XVI viếng thăm Hoa Kỳ, trong cương vị là tân đại sứ, bà nghĩ gì về chuyến viếng thăm này? Đức Thánh Cha sẽ nói gì với tín hữu công giáo và nhân dân Hoa Kỳ?

Đáp: Dĩ nhiên là không ai biết Đức Thánh Cha sẽ nói gì. Nhưng chắc chắn điều Đức Thánh Cha nói sẽ khiến cho người ta suy nghĩ và thảo luận nhiều trong các năm tới, như đã xảy ra với các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của người. Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha có tính cách mục vụ, chứ không nhắm mục đích nào khác. Trong qúa khứ và mới đây các tương quan giữa Hoa Kỳ và Tòa Thánh cũng có các khó khăn, nhưng chưa bao giờ hai bên gần nhau như hiện nay. Trong nhiệm vụ mới của tôi, tôi không phải xây dựng các tương quan, nhưng là phát triển chúng.

Hỏi: Cách đây 9 năm Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Hoa Kỳ lần cuối cùng. Sau biến cố khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, tình hình Hoa Kỳ đã rất khác với hồi năm 1999. Nó khác như thế nào thưa bà đại sứ?

Đáp: Điều đầu tiên tôi xin ghi nhận đó là toàn thế giới đã thay đổi, chứ không phải chỉ có Hoa Kỳ mà thôi. Và tôi tin là chỉ trong vòng 50 năm nữa các sử gia mới hiểu nó đã thay đổi như thế nào. Điều tôi có thể nói ngày nay đó là Hoa Kỳ đã kinh nghiệm được tính cách đễ bị thương tích của mình, đây là điều chưa từng xảy ra trước đó. Tuy nhiên điều này không phải là chuyện hoàn toàn tiêu cực. Chắc chắn chúng tôi đã ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng phải hiểu biết các nền văn hóa và các tôn giáo khác. Đây là sự hiểu biết cần thiết trong một thế giới ngày càng tùy thuộc nhau hơn.

Hỏi: Thưa bà đại sứ, biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 cũng đã thay đổi tương quan giữa Hoa Kỳ và Tòa Thánh, với lập trường khác biệt rõ ràng liên quan tới đề tài chiến tranh, đặc biệt là sau khi xảy ra chiến tranh tại Irak. Lập trường khác biệt này xem ra sau đó cũng đã định đoạt trên các đề tài kinh tế, đặc biệt là việc toàn cầu hóa. Bà nghĩ gì về điều này?

Đáp: Liên quan tới phần đầu câu hỏi của qúy vị, tôi thấy các khác biệt giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ đôi khi đã bị phóng đại qúa đáng. Đúng thật là đã có các ý kiến khác biệt liên quan tới hoạt động ngoại giao cũng như hoạt động quân sự của Hoa Kỳ, trước khi xảy ra chiến tranh Irak. Tuy nhiên giờ đây xem ra Tòa Thánh đang ủng hộ với xác tín các nỗ lực của Hoa Kỳ tại Irak để thiết lập hòa bình, an ninh và khả năng tự cai trị của quốc gia này. Cũng như Tòa Thánh có cùng thái độ đối với các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm trao ban an ninh chống lại nạn khủng bố và đặc biệt chống lại việc sử dụng tôn giáo như lý cớ cho bạo lực. Cả đối với việc toàn cầu hóa, tôi tin rằng lập trường của tổng thống Bush liên quan tới các đề tài phát triển nói chung, cũng có nhiều điểm tương đồng và gần gũi với thông điệp ”Centesimun annus Năm thứ một trăm” của Đức Gioan Phaolô II.

Hỏi: Tương đồng ở những điểm nào thưa bà?

Đáp: Việc toàn cầu hóa có tiềm năng đem lại các ích lợi lớn cho mọi người trên thế giới bao gồm cả những vùng nghèo và ở ngoài lề nhất, nhưng đồng thời nó cũng không thể che dấu nhiều nguy cơ. Như thế câu hỏi đặt ra đó là làm thế nào để tất cả mọi người đều có thể hưởng các ích lợi của việc toàn cầu hóa?

Mới đây tổng thống Bush nói không thể có sự toàn cầu hóa thị trường mà không toàn cầu hóa tình liên đới, và trong tai tôi các lời này vang vọng những gì Đức Gioan Phaolo II đã nói tại Liên Hiệp Quốc hồi năm 1995: ”Chúng ta đã chấp nhận cuộc mạo hiểm của sự tự do, giờ đây chúng ta cũng phải chấp nhận cuộc mạo hiểm của tình liên đới”.

Hỏi: Giờ đây Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ viếng thăm trụ sở Liên Hiệp Quốc. Và người ta chờ đợi rất nhiều nơi diễn văn của người? Tại sao lại có nhiều chú ý như vậy thưa bà đại sứ?

Đáp: Một phần bởi vì Đức Thánh Cha là vị lãnh đạo có thể nói là ”toàn cầu”, và người đến nói chuyện tại diễn đàn toàn cầu quan trọng nhất thế giới là Liên Hiệp Quốc. Đồng thời tôi cũng nghĩ rằng có sự chú ý lớn lao như thế vì người ta nhớ tới các diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Dĩ nhiên chúng ta không biết Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ nói những gì, nhưng chắc chắn điều người nói sẽ khiến cho chúng ta tất cả thảo luận, và suy tư trong nhiều năm trời, cũng như chúng ta đang làm đối với những gì Đức Giáo Hoàng Karol Wojtila đã nói trước đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hồi năm 1995.

Hỏi: Thưa bà đại sứ, nói chung tại sao hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh lại được thế giới coi trọng như vậy?

Đáp: Tôi tin rằng lý do của điều này đó là sự tôn trọng mà mọi quốc gia trên thế giới đều có đối với nền ngoại giao của Tòa Thánh. Thế thì câu hỏi có thể đưa ra ở điểm này đó là tại sao Tòa Thánh lại được tôn trọng như vậy?

Và theo tôi câu trả lời đó là ngày này qua ngày khác tại tất cả mọi trụ sở ngoại giao trên thế giới tiếng nói của Tòa Thánh tìm duy trì bản vị con người như trung tâm của mọi lo lắng. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa là khi một cuộc thảo luận tại Liên Hiệp Quốc hay tại các nơi khác, rơi vào các lãnh vực hoàn toàn có tính cách kinh tế, hay quyền lực, hoặc các lợi nhuận khác, thì nền ngoại giao của Tòa Thánh luôn luôn đem sự chú ý trở lại trên chiều kích nhân bản của các vấn đề.

Hỏi: Bà đại sứ có định nghĩa nền ngoại giao của Tòa Thánh là ”nền ngoại giao tốt đẹp nhất thế giới” hay không?

Đáp: Vâng, tôi nghĩ là có lý do để định nghĩa nền ngoại của Tòa Thánh là nền ngoại giao tốt đẹp nhất thế giới, vì có biết bao nhiêu người cũng nghĩ như vậy. Giới ngoại giao của Tòa Thánh là một nhóm người rất nhỏ, nhưng là những người rất được động viên, với sự thông minh, kinh nghiệm và sự tôn trọng đối với mọi nền văn hóa.

Hỏi: Thưa đại sứ Glendon, đại sứ đã là phụ nữ đầu tiên làm trưởng phái đoàn của Tòa Thánh tham dự hội nghị phụ nữ quốc tế tại Bắc Kinh, và cũng là phụ nữ đầu tiên làm chủ tịch của một cơ quan của Tòa Thánh là Hàn Lâm Viện về các Khoa Học Xã Hội. Giờ đây, đại sứ đứng ở ”phía bên kia” như đại diện của quốc gia Hoa Kỳ, là quốc gia trong các hội nghị phụ nữ quốc tế tại Cairo và Bắc Kinh chẳng hạn, đã có lập trường trái nghịch với lập trường của Tòa Thánh Vaticăng. Đại sứ cảm thấy thế nào trong thế đứng mới này?

Đáp: Có đúng thật là trong các dịp đó đã có nhiều khác biệt ý kiến giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ. Tuy nhiên ngày nay liên quan tới cùng các vấn đề đã được thảo luận tại Cairo và Bắc Kinh như vấn đề dân số, phát triển và điều kiện của nữ giới các lập trường giữa Tòa Thánh và chính quyền Hoa Kỳ rất giống nhau. Riêng đối với địa vị mới của tôi là đại sứ Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh, tôi không cảm thấy mình là ”ở phía bên kia”, nhiệm vụ của tôi ở đây không phải là xây dựng các tương quan, đã rất là mạnh mẽ rồi, mà là tìm củng cố chúng và làm cho chúng ngày càng lan rộng ra trong nhiều lãnh vực khác nữa.

Radio Vatican

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐÍCTÔ XVI

 

 Nhân dịp Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI mừng sinh nhật thứ 81 vào ngày Thứ Tư, 16 tháng 4 năm 2008 trong chuyến Tông Du Hoa Kỳ, chúng tôi xin tóm lược tiểu sử của Ngài. Chúc mừng Ngài, và “Xin Chúa gìn giữ Ngài, thêm sức linh lực và ban cho Ngài đời này hạnh phúc. Đừng trao Ngài cho ác tâm quân thù”.

 

 Ngày 19 tháng 4 năm 2005, hơn 1 tỷ người Công Giáo và toàn thế giới đã hân hoan chào đón Đức Tân Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Ngài đã được mật nghị Hồng Y bầu chọn lên ngôi Giáo Hoàng, kế vị Thánh Phêrô và là Đại Diện Chúa Kitô dưới trần gian để cai quản Giáo Hội. Ảnh hưởng của ngôi vị  Giáo Hoàng không những chỉ riêng đối với các tín hữu Công Giáo mà còn lan rộng trên toàn thế giới.  Chỉ cần nhìn vào sự tiếp đón trang trọng mà Tổng Thống và nhân dân Hoa Kỳ, và Giáo Hội Hoa Kỳ đã dành cho ngài trong chuyến tông du Mục Vụ Hoa Kỳ thì đủ hiểu tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn lao của ngài như thế nào.

Vào lúc 5giờ 50 chiều giờ Rôma, thứ Ba ngày 19 tháng 4 năm 2005, khói trắng đã bốc lên từ ống khói của điện Sistine. Cùng lúc chuông các thánh đường ở Rôma đã vang lên những tiếng vui mừng. Mọi người đều hân hoan và nao nức đón xem vị Giáo Hoàng mới sẽ là ai. Đức Ông Georg Ratzinger bào huynh của Tân Giáo Hoàng cũng có mặt trong số những khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô lúc bấy giờ.

6giờ 43 phút, Đức Hồng Y Jorge Arturo Medina Estevez của Chí Lợi, đã xuất hiện trước ban công của đinh Giáo Hoàng và tuyên bố với mọi người là: “Chúng ta đã có Đức Giáo Hoàng. Đó là Đức Hồng Y Joseph Ratzinger. Ngài lấy tên là Benedict XVI”.

6giờ 48 phút, Đức Bênêđíctô XVI với thánh giá dẫn đầu, tiến ra chào mừng mọi người, và ban phép lành Tông Đồ “Urbi et Orbi” - cho thành Rôma và toàn thế giới. Và Chúa Nhật 24 tháng 4 năm 2005, Ngài chính thức đăng quang Giáo Hoàng.

Đức Hồng Y Josepth Ratzinger đã được mật nghị Hồng Y gồm 115 vị đến từ 52 quốc gia trên thế giới bầu chọn làm Đấng kế vị Đức Gioan Phaolô II. Ngài là vị Giáo Hoàng thứ 2 sau Đức Gioan Phaolô II không phải là người Ý suốt chiều dài gần 500 năm của lịch sử Giáo Hội. Ngài cũng là vị Giáo Hoàng thứ 6 người Đức kể từ thế kỷ thứ 11.

Một điều khác cũng làm mọi người hết sức ngạc nhiên, là tuy rất thân thiết và đồng nhất quan điểm với Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhưng Ngài lại không chọn tước hiệu Gioan Phaolô mà là Bênêđíctô.

Đức Bênêđíctô XVI sinh ngày 16 tháng 4 năm 1927 tại Marktl Am Inn, nước Đức. Thân phụ là một cảnh sát. Ngài xuất thân từ gia đình nông gia truyền thống ở Lower Bavaria. Song thân ngài có 3 người con, mà hai người con trai, trong đó có ngài trở thành linh mục.

Tuổi trẻ Ngài lớn lên tại Traunstein, và được lệnh gia nhập quân ngũ, phụ vụ trong đơn vị phòng không. Ngài phục vụ trong quân đội cho đến những tháng cuối của Thế Chiến II. Giải ngũ năm 1945 và trở lại Traunstein. Nhưng sau đó bị quân đội Mỹ bắt. Tháng 6 năm 1945, Ngài được thả tự do, và trên đường về nhà, Ngài đã phải đón đường đi nhờ một chiếc xe chở sữa.

Từ năm 1946 đến 1951, Ngài theo học triết và thần học tại Đại Học Munich và Cao Đẳng Thần Học ở Freising. Ngày 29 tháng 6 năm 1951 cùng với bào đệ của ngài, cả hai đã lãnh chức linh mục. 

Năm 1953 Ngài đậu Tiến Sĩ Thần Học với luận án: “Dân Chúa và Nhà Chúa theo giáo huấn của Thánh Augustinô”. Sau đó được mời dậy Thần Học Tín Lý tại trường cao đẳng Thần Học Freising.

Từ năm 1959 đến 1969 ngài dậy tại Đại Học Bonn. Từ năm 1963 đến 1966 tại Đại Học Munster. Và từ năm 1966 đến 1969 tại Đại Học Tubinga. Năm 1969, Ngài chính thức trở thành Giáo sư Thần Học Tín Lý của Đại học Regensburg, và cũng tại đây Ngài được chọn là Phó Chủ Tịch.

Năm 1962, lúc 35 tuổi, Ngài trở thành một chuyên gia Thần Học cho Đức Hồng Y Joseph Frings, Tổng Giám Mục Cologne, Đức tại Công Đồng Vatican II.

Tháng 3 năm 1977, Đức Thánh Cha Phaolô VI chọn Ngài làm Tổng Giám Mục Munich và Freising. Ngài được tấn phong ngày 28 tháng 5 năm 1977. Ngài là linh mục triều được cất nhắc vào chức vụ này sau 80 năm lịch sử của Giáo Phận rộng lớn Bavarian.

Một tháng sau ngày tấn phong Tổng Giám Mục. Trong mật nghị Hồng Y ngày 27 tháng 6 năm 1977, Đức Phaolô VI vinh thăng Hồng Y cho ngài, và tiếp tục làm Tổng Giám Mục Munich cho đến ngày 25 tháng 11 năm 1981, khi được Đức Gioan Phaolô II đề cử vào chức vụ Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý và Đức Tin, Chủ Tịch Ủy Ban Thánh Kinh và Ủy Ban Thần Học Quốc Tế của Tòa Thánh. 

Tháng 11 năm 2002, Ngài trở thành chủ tịch của Hồng Y Đoàn. Ngài ở chức vụ Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý và Đức Tin, và tiếp tục làm chủ tịch Hồng Y Đoàn cho đến ngày được bầu làm Giáo Hoàng.

Để bảo vệ an ninh cho thánh lễ đăng quang, có tới 7.000 nhân viên an ninh được trưng dụng. Không phận Rôma trong vòng 5 dặm không một phi cơ nào được bén bảng đến gần. Có tới 100 bác sỹ, 100 y tá, và 50 nhóm cấp cứu sẵn sàng túc trực cùng với 80 xe cứu thương trong tư thế sẵn sàng phục vụ trong 8 trạm cứu thương chung quanh khu hành lễ và quanh thành Rôma.

141 phái đoàn đại biểu các quốc gia, cùng với 70 vị đại diện các tôn giáo gồm Chính Thống, các Giáo Phái Tin Lành, và các tổ chức Kitô Giáo khắp thế giới. 

Cũng như Đức Gioan Phaolô II, triều đại giáo hoàng của ngài gặp nhiều sóng gió và thử thách. Những vấn đề phá thai, đồng tính, hôn nhân đồng tính, giáo sỹ lạm dụng tình dục, vai trò nữ giới, nữ giới làm linh mục, hiệp nhất Kitô giáo, đặc biệt việc đối thoại với Hồi Giáo. Ngoài ra, sự băng hoại và chối bỏ căn tính Kitô Giáo tại Âu Châu luôn luôn là những đề tài nóng mà vị Giáo Hoàng 81 tuổi này phải đối phó. Có lẽ vì hiểu được những nhu cầu và thách đố của thời đại. Và vì ý thức được vai trò của mình, nên ngài đã chọn danh hiệu Bênêđíctô. Cũng như chú trọng nhiều về tình yêu. Thông Điệp đầu tiên của ngài là thông điệp nói về tình yêu: “Thiên Chúa là tình yêu”.

Chủ đề của chuyến Tông Du lần này của ngài tại Hoa Kỳ cũng nhằm vào sức hoán cải và sự giải hóa của tình yêu, nên ngài đã chọn “Đức Kitô, Hy Vọng Của Chúng Ta”. Và trong chuyến tông du này, ngài sẽ dành nhiều nỗ lực cho việc đối thoại với các tôn giáo bạn. Chấn chỉnh lại sự sai trái của hàng ngũ giáo sỹ Hoa Kỳ, và đề cập đến vai trò quan trọng của tôn giáo. 

 “Chúng ta hãy cầu xin cho Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Xin Chúa gìn giữ Ngài, thêm sức sinh lực và ban cho Ngài đời này hạnh phúc. Đừng trao Ngài cho ác tâm quân thù”. Và chúng ta cũng hãy cầu xin cho triều đại Ngài trở thành một nguồn phúc lộc lớn lao cho Giáo Hội và toàn thể nhân loại như tên Bênêđíctô mà Ngài đã tự chọn, vì Bênêđíctô có nghĩa là phúc đức.

Trần Mỹ Duyệt

Mục lục

 

 

Tường thuật chuyến viếng thăm của ÐTC tại Hoa Kỳ

 

Lúc 12 giờ trưa thứ Ba ngày 15 tháng 4 năm 2008, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI rời Roma, lên đường viếng thăm mục vụ Hoa kỳ, trên chuyến bay của chiếc Boeing 777 của hãng hàng không Ý. Ðây là chuyến viếng thăm quốc tế lần thứ 8; và là lần đầu tiên trong triều giáo hoàng, ngài đến thăm Hoa kỳ, tại hai địa điểm Thủ Ðô Washington và New York.

 

12 giờ trưa ngày 15/04/2008, giờ Roma, thì đã là 6 giờ chiều giờ Việt nam, cùng ngày thứ Ba 15/04/2008. Trong chuyến bay, ngoài những vị cộng sự viên thân cận bên Ðức Thánh Cha và khoảng 70 ký giả tháp tùng, người ta còn thấy có quý vị giám mục thuộc ban lãnh đạo Hội Ðồng Giám Mục Hoa kỳ, như Ðức Hồng Y Francis George,chủ tịch, Ðức Cha Gerald Kicanas, Phó Chủ Tịch, và Ðức Cha David Malloy, Tổng Thư Ký và là vị chịu trách nhiệm điều hành tổ chức chuyến viếng thăm. Cũng có mặt trong chuyến bay từ Roma đi Washington, Ðức Tổng Giám Mục Washington, hai Ðức Cha Phụ tá của Tổng Giáo Phận Washington, và Ðức Cha đặc trách giáo phận quân đội Hoa Kỳ.

Trước khi rời lãnh thổ Italia, Ðức Thánh Cha đã gởi điện văn chào tổng thống Italia, Ông Giorgio Napolitano, cùng với lời cầu chúc cho dân tộc Italia được điều tốt đẹp trên bình diện thiêng liêng, dân sự và xã hội.

Máy Bay Boeing 777 chở ÐTC và đoàn tuỳ tùng, đáp xuống Phi Trường Quân Sự của Căn Cứ Không Quân Hoa kỳ Andrews, không xa thủ đô Washington, vào lúc 4 giờ chiều thứ Ba, ngày 15 tháng 4 năm 2008, giờ Hoa Kỳ, tức là 4 giờ sáng ngày thứ Tư 16 tháng 4 năm 2008, giờ Việt nam.

Tổng thống Hoa Kỳ cùng với Phu Nhân ra tận phi trường đón ÐTC và gặp riêng ngài khoảng 15 phút.

Tưởng cũng nên nhắc lại đây rằng hôm ngày 11 tháng 4 năm 2008, Ðức Hồng Y Renato Raffaele Martino, chủ tịch Hội Ðồng Toà Thánh "Công Lý và Hoà Bình", đã lên tiếng lưu ý rằng cuộc gặp gỡ giữa ÐTC và Tổng Thống Hoa Kỳ tuyệt đối không có nghĩa là Toà Thánh ủng hộ chính sách đối ngoại của tổng thống Hoa Kỳ, nhất là trong vấn đề chiến tranh Irak.

Sau khi đã gặp riêng Tổng Thống Hoa Kỳ khi vừa đáp xuống phi trường, ÐTC lên xe về Toà Sứ Thần Toà Thánh ở thủ đô Washington. Không có sinh hoạt nào khác được dự trù cho buổi chiều thứ Ba 15 tháng 4 năm 2008.

Như thế, ÐTC bắt đầu những sinh hoạt của chuyến viếng thăm vào sáng ngày thứ Tư, 16 tháng 4 năm 2008, đúng ngày mừng sinh nhật thứ 81 của ngài.

ÐTC dừng thăm thủ đô Washington cho đến sáng thứ Sáu 18 tháng 4 năm 2008, mới rời thủ đô đi New York. Và sau đó, từ New York về Roma, vào ngày 20 tháng 4 năm 2008.

Theo linh mục Federico Lombardi, giám đốc phòng báo chí toà thánh, thì cách thức tổ chức chuyến viếng thăm cho Ðức Bênêđitô XVI, ở vào tuổi 81, khác với cách tổ chức chuyến viếng thăm cho Ðức Gioan Phaolô II ở vào tuổi 58 khi mới được bầu lên kế vị thánh Phêrô. Chuyến viếng thăm của Ðức Bênêđitô XVI được tổ chức ngắn gọn hơn và đơn giản hơn. Hiện nay, như mọi người có thể lưu ý, sau ba năm thi hành tác vụ Phêrô, Ðức Bênêđitô XVI đã từ từ giảm bớt những hoạt động, và trao việc nhiều hơn cho Ðức Hồng Y Tarcisio Bertone, quốc vụ khanh toà thánh, "nhân vật thứ hai" sau Ðức Thánh Cha. Chẳng hạn như trong năm 2008 này, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI chỉ thực hiện ba chuyến tông du quốc tế: tại Hoa Kỳ vào tháng 4/2008, tại Úc Châu vào tháng 7/2008, và tại Pháp vào tháng 11/2008. Trong khi đó, trong khoảng thời gian 10 tháng, nghĩa là --- từ tháng 6 năm 2007 cho đến tháng 3 năm 2008 --- Ðức Hồng Y Bertone, quốc vụ khanh toà thánh, đã thực hiện 7 chuyến đi quốc tế.

Tưởng cũng nên nhắc đến nơi đây một sinh hoạt âm thầm, nhưng đặc biệt đồng hành với chuyến viếng thăm của Ðức Thánh Cha tại Hoa kỳ, đó là việc cầu nguyện cho chuyến viếng thăm của ÐTC.

Theo sự gợi ý của Ðức Tổng Giám Mục Pietro Sambi, sứ thần Toà Thánh tại Hoa Kỳ, các nữ tu dòng kín trong các đan viện tại Hoa Kỳ, vì không thể nào đến thủ đô Washington hay New York để gặp ÐTC, nên đã chia phiên để cầu nguyện cho từng biến cố của chuyến viếng thăm. Nữ Tu Maria Regina, thuộc đan viện Camêlô ở Oregon, đã cho biết rằng mỗi nữ tu trong cộng đoàn của chị nhận cầu nguyện cho một hay hai biến cố của chuyến viếng thăm, đồng thời dâng những hy sinh trong ngày để cầu nguyện cho biến cố mà mình đã chọn cầu nguyện cho. Như thế, tất cả mọi biến cố của chuyến viếng thăm của ÐTC tại Hoa Kỳ đều được bao trùm trong lời cầu nguyện của những tâm hồn tận hiến.

Nhưng không phải chỉ có những nữ tu mà thôi; tại Ðại Học Công Giáo ở thủ đô Washington, cô sinh viên Margaret Keller tình nguyện phân phát những tràng chuỗi Môi Khôi ở Trung Tâm Sinh Hoạt Sinh Viên và mời các bạn sinh viên đến tham dự buổi canh thức lần chuỗi và trích đọc những trang sách của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI, tại Nhà Nguyện của Ðại Học, vào chiều tối thứ Ba, 15 tháng 4 năm 2008, đúng ngày ÐTC đến thăm Hoa Kỳ, để cầu nguyện cho ÐTC và cho chuyến viếng thăm của ngài. Và tối thứ Tư, 16 tháng 4 năm 2008, ngày mừng sinh nhật thứ 81 của ÐTC, các sinh viên của Ðại Học Công Giáo Hoa Kỳ ở thủ đô Washington, luân phiên chầu Chúa Thánh Thể suốt đêm, để cầu nguyện cho chuyến viếng thăm và cho ÐTC.

Tại Ðền Thánh Quốc Gia Kính Ðức Maria Vô Nhiễm, một trung tâm hành hương nổi tiếng của Giáo Hội công giáo tại Hoa Kỳ, nơi Ðức Thánh Cha đến đọc kinh chiều và gặp các Giám Mục Hoa Kỳ, vào chiều thứ Tư 16 tháng 4 năm 2008, ngoài những trang hoàng bông hoa và cờ toà thánh, trong những ngày qua, người ta ghi nhận số tín hữu đến hành hương để cầu nguyện cho ÐTC và chuyến viếng thăm của ngài tại Hoa Kỳ, tăng lên nhiều hơn lúc bình thường.

Tại Tổng Giáo Phận Boston, dù không được ÐTC đích thân đến thăm, nhưng Ðức Hồng Y Sean O'Malley, Tổng Giám Mục Boston, đã gởi thư mục vụ cho toàn giáo phận, để giải thích ý nghĩa và kêu gọi cầu nguyện cho chuyến viếng thăm của ÐTC tại Hoa kỳ. Trong thư, Ðức Hồng Y đã giải thích như sau: "Ðức Thánh Cha không phải là một nhân vật nổi tiếng đời thường, cũng không phải là một ngôi sao nhạc rock. Ngài là chủ chăn giáo hội và đại diện cho Chúa Kitô, Ðấng là Chủ Chăn Nhân Lành, và đã ra lệnh cho thánh Phêrô như sau: Hãy chăm sóc nuôi sống các chiên của Ta. Ðức Bênêđitô XVI đến nuôi sống chúng ta trong cơn đói khát Thiên Chúa và đói khát sự Thật. Chúng ta hãy tiếp đón ngài với lòng mộ mến và thành tín. Ước chi sự hiện diện của ngài giữa chúng ta, giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Chúa Kitô và đối với nhau. Ước chi những lời ngài nói canh tân chúng ta trong dấn thân trở nên những môn đệ trung thành trong Giáo Hội Chúa Kitô." Hẹn gặp lại quý vị và các bạn.

 

ngày thứ hai

 

Thứ tư 16-4-2008 là ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ 6 ngày của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, và cũng là ngày sinh nhật thứ 81 của ngài. Đức Thánh Cha đã chỉ có hai sinh hoạt chính: ban sáng ngài tham dự lễ nghi tiếp đón chính thức tại Tòa Bạch Ốc và thăm xã giao tổng thống Bush; và ban chiều Đức Thánh Cha chủ sự buổi hát kinh chiều với các Giám Mục tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm.


Thủ đô Washington rộng 176 cây số vuông, có hơn 563 ngàn dân cũng được gọi là ”Thành phố Liên Bang”. Nó đã được chọn hồi năm 1790 vì nằm giữa các tiểu bang miền bắc và các tiểu bang miền nam và gần nơi ở của tổng thống George Washington. Quận Columbia ám chỉ ông Cristoforo Colombo người đã khám phá ra châu Mỹ. Họa đồ thành phố do kiến trúc sư người Pháp Pierre l'Enfant thực hiện từ năm 1793 và các việc xây cất do kiến trúc sư


Benjamin Banneker, con của một cựu nô lệ thực hiện. Chính giữa thành phố là Đồi Capitol, tức trụ sở Thượng Viện Hoa Kỳ. Từ đó có 4 con đường chia Washington thành 4 khu vực. Thủ đô Washington là trụ sở của chính quyền liên bang gồm Tòa Bạch Cung là dinh tổng thống, Bộ Ngoại Vụ và Ngũ giác đài là Bộ Quốc Phòng. Thủ đô Washington nổi tiếng vì có Thư Viện lớn nhất thế giới với 29 triệu cuốn sách và 58 triệu thủ bản. Ngoài ra còn có Vườn Bách Thảo với 26 ngàn thảo mộc đủ loại; các viện bảo tàng của tổ chức Smithsonian Institution cùng hàng chục viện bảo tàng và trung tâm sưu tầm khác; và 3 sân bay. Ngày 11 tháng 9 năm 2001 một phần của Ngũ Giác Đài đã bị máy bay khủng bố làm hư hại.


Tổng giáo phận Washington có hơn 582 ngàn tín hữu trên tổng số 2 triệu 647 ngàn dân, gồm 140 giáo xứ và 10 cứ điểm truyền giáo, 372 linh mục giáo phận, 628 linh mục dòng, 182 Phó tế vĩnh viễn, 108 tu huynh, 603 nữ tu và 66 đại chủng sinh. Giáo phận điều khiển 192 cơ sở giáo dục và 85 trung tâm bác ái.

Trên máy báy Đức Thánh Cha đã cho các nhà báo tháp tùng phỏng vấn ngài. Được hỏi đâu là mục đích chính của chuyến viếng thăm, Đức Thánh Cha cho biết chuyến tông du có hai mục đích: thứ nhất là thăm Giáo Hội và quốc gia Hoa Kỳ, để kỷ niệm 200 năm giáo phận Baltimore được nâng lên hàng Tổng giáo phận và ngày sinh của ba giáo phận khác là Philadelphia, Boston và Louisville. Đây là một ngày lễ lớn đồng thời là dịp để suy tư về qúa khứ và tương lai hầu đáp ứng các thách đố lớn của thời đại ngày nay. Ngoài ra cũng có cuộc gặp gỡ liên tôn và đại kết, đặc biệt cuộc gặp gỡ tại hội đường do thái với các bạn do thái ngày áp lễ Vượt Qua của họ. Đó là khía cạnh tôn giáo mục vụ của chuyến viếng thăm Giáo Hội tại Hoa Kỳ trong thời điểm này của lịch sử. Mục đích thứ hai là viếng thăm Liên Hiệp Quốc, nhân kỷ niệm 60 năm công bố Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền. Đây là nhân chủng học và triết lý cũng như nền tảng nhân bản và tinh thần làm nền cho Liên Hiệp Quốc. Vì thế đây cũng là dịp giúp suy tư và ý thức hơn về các quyền con người. Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền quy tụ các truyền thống văn hóa khác nhau, nó đặc biệt bao gồm nền nhân chủng học thừa nhận nơi con người một chủ thể có quyền ưu tiên trên tất cả mọi cơ cấu, và các giá trị chung mà mọi người phải tôn trọng. Trong một thời đại khủng hoảng các gía trị như hiện nay đây là dịp phải cùng nhau tái khẳng định nguyên tắc ấy.


Ông John Allen, chuyên viên về các vấn đề Vaticăng, hỏi Đức Thánh Cha về hiện tình của Giáo Hội Hoa Kỳ, là một Giáo Hội lớn, sinh động nhưng cũng khổ đau vì cuộc khủng hoảng mới đây liên quan tới các vụ lạm dụng tính dục, Đức Thánh Cha có sứ điệp nào cho sự chờ mong của tín hữu và người dân Hoa Kỳ hay không. Trả lời bằng tiếng Anh Đức Thánh Cha nói những điều đã xảy ra là một nỗi khổ đau lớn cho Giáo Hội tại Hoa Kỳ, cho Giáo Hội nói chung và cho riêng cá nhân ngài. Khi đọc các bài tường trình, Đức Thánh Cha không hiểu làm sao một vài linh mục lại có thể thất bại trong sứ mệnh thoa dịu và đem tình yêu của Chúa đến cho các trẻ em như thế. Đức Thánh Cha cho biết Giáo Hội sẽ làm tất cả những gì có thể để những chuyện như thế đừng xảy ra trong tương lai. Cần phải hành động trên ba bình diện: trước hết là công lý và chính trị. Các ứng sinh lạm dụng tính dục sẽ không được làm linh mục, và vì công bằng cũng phải chân thành trợ giúp các nạn nhân bị thử thách nặng nề. Thứ hai là bình diện mục vụ: các người như thế cần được trợ giúp và hòa giải để được chữa lành. Đức Thánh Cha biết các Giám Mục, Linh Mục và mọi tín hữu công giáo Mỹ sẽ làm tất cả những gì có thể để trợ giúp, và chữa lành các đương sự. Giáo Hội đã thanh tra các chủng viện và sẽ làm tất cả những gì có thể để cho các chủng sinh hấp thụ được một sự đào tạo sâu xa trên bình diện tinh thần, nhân bản và trí thức. Điểm thứ ba đó là các Giám Mục và giám đốc các đại chủng viện sẽ phân định rất nghiêm ngặt để chỉ có các chủng sinh ”trong sạch” mới được thụ phong linh mục. Có ít linh mục nhưng mà tốt, thì hơn là có nhiều linh mục. Và Giáo Hội sẽ làm tất cả những gì có thể để chữa lành các vết thương này.


Một nhà báo người Mehicô hỏi Đức Thánh Cha về vấn đề di cư và sự hiện diện rất đông đảo của người di cư nói tiếng Tây Ban Nha tại Hoa Kỳ và trong Giáo Hội Công Giáo Mỹ khiến cho cộng đoàn công giáo ngày càng trở thành cộng đoàn nói hai thứ tiếng và có hai nền văn hóa. Nhưng đồng thời trong xã hội Mỹ phong trào chống di cư cũng gia tăng tạo ra nhiều cảnh sống khó khăn và kỳ thị. Ông muốn biết trong chuyến viếng thăm Đức Thánh Cha có đề cập tới vấn đề này không và có kêu mời Hoa Kỳ tiếp nhận người đi cư hay không.


Đức Thánh Cha nói qua các Giám Mục Trung và Nam Mỹ về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, ngài biết tầm rộng lớn của vấn đề, đặc biệt là cảnh gia đình phân cách. Sự kiện này nguy hiểm cho cơ cấu xã hội, luân lý và nhân bản của các quốc gia nói trên. Giải pháp nền tảng đó là phải làm thế nào để người dân không cần phải di cư ra nước ngoài sinh sống. Và tất cả mọi người phải làm việc cho mục đích này, thăng tiến công ăn việc làm và các điều kiện sống thích hợp cho người dân. Đức Thánh Cha nói ngài sẽ đề cập với tổng thống Bush về vấn đề này để Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia này phát triển. Đó là lợi ích cho các quốc gia nói trên cũng như cho toàn thế giới và cả Hoa Kỳ nữa. Giải pháp ngắn là phải trợ giúp các gia đình, che chở để các gia đình không bị phá hủy. Ngoài ra cũng cần làm mọi sự có thể để chống lại tình trạng bấp bênh và bạo lực, làm sao để người di cư có cuộc sống xứng đáng. Đức Thánh Cha biết Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cộng tác rất nhiều với các Hội Đồng Giám Mục Mỹ Latinh cũng như các linh mục để trợ giúp các anh chị em di cư.


Một nhà báo Ý nói mới đây bà tân đại sứ Mỹ cạnh Tòa Thánh có nêu bật giá trị công cộng của tôn giáo tại Hoa Kỳ. Ông muốn biết đây có thể là mô thức cho Châu Âu bị tục hóa hay không. Đức Thánh Cha nói châu Âu không thể chỉ bắt chước Hoa Kỳ, mà có lịch sử riêng của mình. Nhưng có thể học hỏi nơi nhau nhiều điều. Điều hấp đẫn đó là dân Mỹ bao gồm các cộng đoàn và những người đã chạy trốn các Giáo Hội Nhà Nước và muốn có một Nhà Nước đời rộng mở cho tất cả mọi tôn giáo, cho tất cả mọi hình thức thực hành niềm tin. Và đã nảy sinh ra một quốc gia đời có chủ ý: người dân chống lại một Nhà Nước Giáo Hội và một Giáo Hội Nhà Nước. Nhưng tính cách đời đó phát xuất từ ý muốn tôn giáo, từ tình yêu đối với tôn giáo trong sự đích thật của nó. Khi nghiên cứu Mỹ châu, triết gia Alexis Tocqueville thấy các cơ cấu đời sống trong sự hòa hợp luân lý hiện diện giữa các công dân. Xem ra đây là một mô thức nền tảng và tích cực đáng được tuân giữ bên Âu châu nữa. Tuy nhiên cũng phải ghi nhận là 200 năm đã trôi qua tại Âu châu đã có biết bao nhiêu phát triển. Và giờ đây tại Hoa Kỳ cũng có sự tấn kích của một huynh hướng đời mới, hoàn toàn khác. Như thế trước đây có các vấn đề như di cư, người Mỹ Trắng Tin Lành và các vấn đề khác.

Nhà báo John Pavis đặc trách hãng thông tin Hoa Kỳ tại Roma muốn biết một cơ cấu quốc tế như Liên Hiệp Quốc có thể cứu vãn được các nguyên tắc ”không thể thương lượng được”, dựa trên luật tự nhiên, mà Giáo Hội Công Giáo rao giảng hay không. Đức Thánh Cha trả lời mục đích nền tảng của Liên Hiệp Quốc là bảo vệ các giá trị chung, nền tảng của sự chung sống hòa bình giữa các Quốc Gia bằng cách tuân giữ công lý và phát triển công lý. Nền tảng của Liên Hiệp Quốc là các quyền con người diễn tả các giá trị không thể thương lượng được, có trước tất cả mọi cơ cấu và là nền tảng của mọi cơ cấu. Đó là điểm gặp gỡ giữa các nền văn hóa được ghi khắc trong chính bản tính con người. Canh tân ý thức Liên Hiệp Quốc chỉ có thể làm việc và thi hành nhiệm vụ hòa bình, khi có nền tảng chung là các giá trị diễn tả các ”quyền”, mà mọi người đều phải tuân giữ. Sứ mệnh của Đức Thánh Cha là xác nhận ý niệm nền tảng này và cập nhật nó chừng nào có thể. Chính trong ý hướng đó Đức Thánh Cha cho biết ngài rất vui khi đến viếng thăm Hoa Kỳ và chứng kiến sức sinh động của Giáo Hội và đất nước này.


Trở lại chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha lúc 8 giờ sáng ngài đã dâng thánh lễ trong nhà nguyện Tòa Sứ Thần cũng là lễ tạ ơn sinh nhật thứ 81 của ngài.


Lúc sau 10 giờ Đức Thánh Cha đã rời Tòa Sứ Thần để đi xe đến Tòa Bạch Cung. Dinh thự này được tổng thống George Washington khởi sự xây năm 1792 và hoàn thành năm 1800 sau khi tổng thống qua đời. Năm 1814 Tòa Bạch Cung bị người Anh đốt phá và cánh phải bị hư hại vì trận hỏa hoạn năm 1929. Tòa Bạch cung có 6 tầng, gồm 132 phòng, 8 cầu thang và 3 thang máy. Dân chúng có thể ghi danh vào thăm Tòa Bạch Ốc.


Chờ đợi Đức Thánh Cha trước tòa Bạch Ốc có tổng thống Bush và phu nhân cũng như các giới chức đạo đời, các Hồng Y và các Giám Mục Phụ tá của tổng giáo phận Washington. Lễ nghi tiếp đón chính thức diễn ra với 21 phát đại bác nổ vang trong khi Đức Thánh Cha và tổng thống Bush duyệt hàng chào danh dự. Tiếp đến ban nhạc trổi quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Mỹ.


Đáp từ tổng thống Bush Đức Thánh Cha đã cám ơn tổng thống mời ngài tới viếng thăm Hoa Kỳ, đặc biệt nhân dịp mừng sinh nhật 200 năm giáo phận đầu tiên của Hoa Kỳ là Baltimore được nâng lên hàng tổng giáo phận, và ngày khai sinh bốn giáo phận khác là New York, Boston, Philadelphia và Louisville. Đức Thánh Cha nói: ”Tôi đến như một người bạn, và người loan báo Tin Mừng, như là một người tôn trọng xã hội đa nguyên rộng lớn này. Các tín hữu công giáo đã và tiếp tục cống hiến phần đóng góp tuyệt diệu của họ cho đời sống của quốc gia này. Tôi tin rằng sự hiện diện của tôi có thể là suối nguồn cho sự canh tân và niềm hy vọng cho Giáo Hội tại Hoa Kỳ và củng cố lòng cương quyết của các tín hữu công giáo trong việc xây dựng cuộc sống Quốc Gia mà họ hãnh diện là công dân, với tinh thần trách nhiệm lớn lao hơn”.

Tiếp tục bài đáp từ Đức Thánh Cha nhắc lại nguyên lý làm nảy sinh ra quốc gia này: đó là việc kiếm tìm tự do được hướng dẫn bởi xác tín các nguyên tắc điều khiển cuộc sống chính trị và xã hội gắn liền với trật tự luân lý dựa trên quyền là Chúa Của Thiên Chúa Tạo Hóa. Chính vì thế các tài liệu lập quốc minh nhiên rằng tất cả mọi người đều được tạo dựng bình đẳng và đều có các quyền bất khả nhượng, dựa trên luật lệ tự nhiên và trên Thiên Chúa của sự tự nhiên đó. Trên con đường lịch sử dài có nhiều khó khăn của Quốc Gia này các niềm tin tôn giáo đã thường xuyên linh hứng và là sức mạnh hướng đạo, chẳng hạn như trong cuộc chiến đấu chống lại nạn nô lệ và trong phong trào bảo vệ các quyền dân sự. Cả trong thời đại ngày nay, đặc biệt trong các cuộc khủng hoảng, người Mỹ tiếp tục tìm ra sức mạnh trong việc gắn bó với gia tài gồm các lý tưởng và khát vọng chung này.


Đề cập tới các cuộc gặp gỡ với cộng đoàn công giáo và các tôn giáo khác, Đức Thánh Cha nói tín hữu của mọi tôn giáo đã tìm thấy sự tự do tôn thờ Thiên Chúa và sống theo các xác tín tôn giáo của mình và được chấp nhận như phần của một liên bang, trong đó mỗi người và mọi nhóm đều có thể có tiếng nói của mình. Trong bối cảnh của các vấn đề tôn giáo và chính trị ngày càng phức tạp hiện nay Đức Thánh Cha tin rằng người dân Mỹ có thể tìm thấy nơi lòng tin tôn giáo của mình suối nguồn quý báu giúp phân định và sự linh hứng giúp tiếp tục cuộc đối thoại có lý sự, tinh thần trách nhiệm và tôn trọng trong nỗ lực chung xậy một xã hội nhân bản và tự do hơn.


Đức Thánh Cha nói thêm trong bài đáp từ: Sự tự do không chỉ là một ơn, nhưng cũng là một lời mời gọi tinh thần trách nhiệm cá nhân. Người dân Mỹ có kinh nghiệm, vì trong mọi thành phố đều có các đài kỷ niệm những người đã hy sinh cuộc sống trong việc bảo vệ sự tự do tại địa phương cũng như ở nơi khác. Việc bảo vệ sự tự do mời gọi vun trồng nhân đức, sự tự chế, hy sinh cho công ích và có ý thức trách nhiệm đối với những người kém may mắn hơn. Ngoài ra nó còn đòi hỏi sự can đảm dấn thân cho cuộc sống dân sự, đem vào trong cuộc thảo luận công cộng các niềm tin tôn giáo và các giá trị sâu xa của mình. Để cho công ích luôn luôn chiến thắng: đó là thách đố đối với mọi thế hệ.


Đức Gioan Phaolo II là người đã hiểu biết sự kiện này một cách sâu xa hơn ai hết. Suy tư về chiến thắng tinh thần của sự tự do trên chế độ độc tài tại Balan và Đông Âu Đức Gioan Phaolo II nói: ”Lịch sử cho thấy rõ ràng là trong một thế giới không có sự thật, thì sự tự do mất đi nền tảng riêng” và ”một nền dân chủ không có giá trị, cũng có thể mất đi chính linh hồn của nó” (Centesimus annus, 46).


Về phần mình Giáo Hội ước mong góp phần vào việc xây dựng một thế giới ngày càng xứng đáng hơn với con người, được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,26-27). Giáo Hội xác tín rằng lòng tin chiếu một ánh sáng mới trên mọi sự và Tin Mừng vén mở cho thấy ơn gọi cao qúy và số phận tuyệt diệu của con người. Ngoài ra lòng tin cũng cống hiến sức mạnh giúp đáp trả lại ơn gọi cao cả đó và niềm hy vọng linh hứng cho việc xây dựng một thế giới ngày càng công bằng và huynh đệ hơn. Nền dân chủ chỉ có thể nở hoa, khi các vị lãnh đạo chính trị và những người đại diện nó được hướng dẫn bởi sự thật, và đem sự khôn ngoan phát xuất từ nguyên tắc luân lý vào trong các quyết định liên quan tới cuộc sống và tương lai Quốc Gia.\


Đề cập tới vai trò quan trọng của Hoa Kỳ trong cộng đồng quốc tế Đức Thánh Cha hy vọng khi viếng thăm Liên Hiệp Quốc vào thứ sáu tới đây, ngài có thể khích lệ các nỗ lực khiến cho tổ chức này có tiếng nói hữu hiệu đối với các chờ mong chính đáng của các dân tộc trên thế giới. Dịp kỷ niệm 60 năm công bố Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền cho thấy đòi buộc của tình liên đới toàn cầu càng cấp thiết hơn bao giờ hết, nếu muốn rằng tất cả mọi người đều có thể sống xứng đáng với phẩm giá con người, như anh chị em trong cùng một nhà chung quanh bàn ăn, mà lòng lành Chúa đã chuẩn bị cho tất cả mọi con cái Người. Hoa Kỳ đã là quốc gia luôn luôn chứng minh cho thấy sự quảng đại trong việc trợ giúp nhân đạo, thăng tiến phát triển và thoa dịu các nạn nhân tai ương thiên nhiên. Đức Thánh Cha cầu mong Hoa Kỳ tiếp tục diễn tả sự lo lắng cho gia đình nhân loại trong việc yểm trợ các nỗ lực của nền ngoại giao quốc tế nhằm giải quyết các tranh chấp và thăng tiến phát triển. Nhờ thế các thế hệ tương lai có thể sống trong một thế giới nở hoa chân lý, tự do và công bằng, một thế giới trong đó phẩm giá và các quyền con người do Chúa ban cho từng người nam, nữ, và trẻ em được chú ý che chở và thăng tiến một cách hữu hiệu.


Kết thúc lễ nghi chào đón chính thức Đức Thánh Cha đã hội kiến riêng với tổng thống trong phòng làm việc riêng. Sau đó hai bên đã trao đổi qùa tặng rồi chào thăm gia đình và các cộng sự viên và chụp hình lưu niệm.

 

Đức Thánh Cha viếng thăm tại Hoa Kỳ: ngày 16 và sáng 17-4-2008

Tiếp đón tại Tòa Nhà Trắng

Cuộc đón tiếp ĐTC Biển Đức 16 tại Tòa Nhà Trắng được mô tả là đông đảo và ngoạn mục nhất từ trước đến nay tại đây. 13.500 người hiện diện trong khu vực dành cho khách mời ở khuôn viên phía nam của Tòa Nhà Trắng. Và lần đầu tiên người ta thấy có đông đảo các GM tại Phủ Tổng thống Mỹ như vậy. Nhiều GM Mỹ tới đây lần đầu tiên. Các vị được cảnh sát hộ tống và tháp tùng từ xe bus đến khu vực gặp gỡ. Nhiều đại biểu quốc hội Mỹ cũng ở trong khu vực này, nhưng phải đứng khá xa bục danh dự. Nhiều trẻ em và học sinh mang áo có in hàng chữ "Chào mừng ĐGH Hy vọng”, hoặc "Chúng con yêu mến ngài, ĐGH hy vọng”. Cũng có những em mang áo thung có hình bánh sinh nhật có số 81 trên đó, để mừng sinh nhật của ĐTC. Cờ Vatican và Hoa Kỳ cũng được cắm đầy ở khu vực tiếp đón.

Mặc dù lễ nghi đón tiếp tương đối ngắn ngủi, nhưng các tham dự viên đã phải chờ đợi khá lâu. Nhiều nữ hướng đạo sinh đứng chờ lâu quá, hơn 1 tiếng, nên bị xỉu. Khi em bé thứ ba xỉu xuống, các binh sĩ thủy quân lục chiến canh gác thấy vậy, vội mang những chai nước cho các nữ sinh còn lại.

Sau khi trao đổi diễn văn công khai, ĐTC và Tổng thống đi vào bên trong Tòa Nhà Trắng để hội kiến riếng. Đám đông thưa dần, nhiều người còn đứng lại chụp hình. Xe bus chở các GM ra đi. Đức Cha Charles Chaput, TGM giáo phận Denver, đưa ra nhận xét: hôm nay tổng thống nói như một tín hữu Công Giáo, còn ĐGH thì nói hệt như một người Mỹ!”

Thông cáo chung của Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh và của Tòa Nhà Trắng cho biết trong cuộc thảo luận riêng, ĐTC và Tổng thống đã bàn về vấn đề khủng bố và làm sao đối phó với tệ nạn này mà vẫn tôn trọng các quyền con người.

Hai vị lãnh đạo bày tỏ mối quan tâm chung về việc bảo vệ sự sống con người, hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng cầu nguyện cho cơ chế gia đình.

Thông cáo có đoạn viết: ”Hai vị tái khẳng định sự quyết liệt hoàn toàn loại bỏ khủng bố cũng như sự lèo lái tôn giáo để biện minh cho những hành vi bạo lực vô luân chống lại những người vô tội.. Hai vị cũng đề cập đến sự cần thiết phải đối phó với nạn khủng bố bằng những phương thế tôn trọng nhân phẩm và các quyền con người”.

Cũng trong cuộc gặp gỡ bên trong Tòa Nhà Trắng, nhân dịp sinh nhật thứ 81 của ĐTC, Tổng thống Bush đã tặng ngài tượng Thánh Giá bằng pha lê và một bộ sưu tập các địa CD nhạc cổ điển của Hoa Kỳ và các đĩa nhạc tôn giáo. ĐTC tặng tổng thống bức tranh khảm hình Quảng trường Thánh Phêrô ở Vatican, theo kiểu thế kỷ 18.

Rất nhiều người không được vào khu vực tòa Nhà Trắng, nên ban tổ chức đã thay đổi chương trình, để ĐTC đi xe bọc kính từ Tòa Nhà Trắng về Tòa Sứ Thần sau cuộc gặp gỡ, với mục đích để các tín hữu có thể trông thấy và chào ĐTC. Trong số đông đảo tín hữu, có khoảng 5 ngàn thành viên Con đường Tân Dự Tòng, từ nhiều nơi ở Mỹ, tụ tập tại công viên Lafayette từ sáng sớm để chào đón ĐTC. Nhiều người dẫn gia đình con cái đi theo, như ông bà José Luis Rosario và Annerias. Ông Bà từ New York đến và dẫn theo 8 người con. Họ nói: ”Đây là cơ hội không những để nghe những lời của ĐTC, nhưng còn để con cai chúng tôi thấy đó là điều quan trọng”.

Kinh chiều với các Giám Mục Hoa Kỳ

Chiều thứ tư, 16-4-2008, ĐTC đã chủ sự buổi hát kinh chiều với 400 GM toàn nước Hoa Kỳ. Đây là Đền Thánh quốc gia và là thánh đường lớn nhất tại Mỹ, được đặt viên đá đầu tiên hồi năm 1920, nhưng sau đó bị tạm ngưng vì khủng hoảng kinh tế năm 1929 và thế chiến thứ hai, và chỉ được tiếp tục từ năm Thánh Mẫu 1954, rồi được khánh thành năm 1959. Trong thành đường này có nhiều nhà nguyện với tượng ảnh Đức Mẹ của các nước khác nhau, trong đó có cả nhà nguyện Đức Mẹ La Vang, được khánh thành năm ngoái.

Hàng ngàn tín hữu tham dự buổi hát kinh tại quảng trường bên ngoài qua màn hình khổng lồ.

Trong bài giảng, sau khi đề cao tầm quan trọng và ảnh hưởng của Cộng đồng Công Giáo Hoa Kỳ, ngài nhắc đến truyền thống của nước Mỹ đón tiếp người di dân và nói:

”Anh em GM, tôi muốn khích lệ anh em và cộng đoàn của anh em tiếp tục chào đón người di dân đang gia nhập hàng ngũ của anh em ngày nay, và chia sẻ những vui mừng và hy vọng của họ, nâng đỡ họ trong những sầu muộn và cơ cực của họ, giúp họ triển nở trong quê hương mới. Đó chính là điều mà đồng bào của anh em đã từng làm qua bao thế hệ.”

Nhắc đến sứ mạng của GM, ĐTC đặt câu hỏi: ”Trong thế kỷ này, đâu là cách thế tốt nhất để một GM có thể đáp ứng lời kêu gọi ”canh tân mọi sự trong Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta?” Làm thế nào để dẫn đưa đoàn chiên đến gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch của niềm hy vọng biến đổi cuộc sống như Tin Mừng vẫn nói (Spe salvi,4)? Và ĐTC trả lời: có lẽ trước tiên GM cần bắt đầu bằng cách loại bỏ một số hàng rào ngăn cản cuộc gặp gỡ với Chúa. Tuy nước Mỹ nổi bật về một tinh thần tôn giáo chân thành, nhưng ảnh hưởng tinh vi của trào lưu tục hóa có thể tác động tới cách thức dân chúng để cho niềm tin ảnh hưởng đến cách cư xử của họ. Phải chăng là điều thích hợp khi một đàng người ta tuyên xưng đức tin ở nhà thờ vào những ngày chúa nhật, để rồi trong tuần lễ, họ lại làm ăn hoặc cổ võ những biện pháp y khoa trái ngược với niềm tin ấy? Phải chăng là điều thích hợp khi các tín hữu Công Giáo thực hành đạo cố tình không biết tới hoặc khai thác bóc lột người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, cổ võ những lối sống tính dục trái ngược với giáo huấn luân lý Công Giáo, hoặc chấp nhận những lập trường trái ngược với quyền sống của mỗi người, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên? Cần phải chống lại mọi xu hướng coi tôn giáo chỉ là một sự kiện riêng tư. Chỉ khi nào đức tin thấm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc sống, thì các tín hữu Kitô mới thực sự cởi mở đối với quyền năng biến đổi của Tin Mừng.

Hàng rào thứ hai là chủ nghĩa duy vật thực hành. ĐTC nói: ”Đối với một xã hội sung túc, một chướng ngại khác cảm trở cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống là ảnh hưởng tinh vi của chủ nghĩa duy vật.. Dân chúng ngày nay cần được nhắc nhở về mục đích tối hậu đời sống của họ. Họ cần nhìn nhận rằng nơi họ có một niềm khao khát sâu xa đối với Chúa. Họ cần được những cơ hội để uống từ giếng tình yêu vô biên của Chúa. Người ta dễ bị bị cám dỗ vì khả năng hầu như vô giới hạn của khoa học và kỹ thuật mang lại cho chúng ta, và dễ đi tới sai làm mà nghĩ rằng ta có thể thỏa mãn những nhu cầu sâu xa nhất với những cố gắng riêng của chúng ta. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Nếu không có Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể ban cho chúng ta điều mà tự mình chúng ta không thể đạt được (Spe salvi 31), thì cuộc sống chúng ta chỉ là trống rỗng.”

Trong một xã hội đề cao tự do và quyền tự quyết của cá nhân, thật dễ quên mất sự lệ thuộc của chúng ta vào người khác cũng như trách nhiệm của chúng ta đối với họ. Sự nhấn mạnh tới cá nhân chủ nghĩa này cũng ảnh hưởng tới Giáo Hội (Spe Salvi 13-15), làm nảy sinh một hình thức đạo đức đôi khi nhấn mạnh quan hệ riêng tư với Thiên Chúa và gây thiệt hại cho lời kêu gọi trợ thành những phần tử của một cộng đoàn được cứu chuộc. Ngay từ đầu, Thiên CHúa thấy rằng ”con người ở một mình không tốt” (Gn 2,18). Chúng ta được tạo thành như những hữu thể xã hội, chỉ tìm được sự viên mãn trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân.

ĐTC nói đến vai trò của giáo dân Công Giáo, nền giáo dục Công Giáo, nhất là sự cần thiết mang lại cho những giáo dân dấn thân trong việc săn sóc sức khỏe một sự huấn luyện về giáo huấn luân lý của Giáo Hội. ĐTC khích lệ các GM lên tiếng về các vấn đề luân lý và xã hội, trong bối cảnh tự do ngôn luận của xã hội... Ngài nói: ”Anh em có nhiệm vụ đảm bảo cho việc huấn luyện luân lý ở mọi cấp độ trong đời sống Giáo Hội phản ảnh giáo huấn chân chính của Tin Mừng sự sống”.

ĐTC nhắc đến đến sự sa xút của gia đình như một yếu tố cơ bản của Giáo Hội và xã hội. Ly dị và sự không chung thủy gia tăng, và nhiều người trẻ em nam quyết định hoãn lại hôn phối hoặc coi như không có hôn phối. Đối với một số bạn trẻ Công Giáo, mối dây bí tích hôn phối chẳng khác gì hôn phối dân sự, hoặc chỉ coi hôn phối chỉ là một sự thỏa thuận sống với nhau một cách không chính thức và không bền vững. Vì thế, thật là đáng báo động vì sự giảm sút hôn phối đạo tại Hoa kỳ, đồng thời có sự gia tăng các cặp nam nữ sống chung mà không kết hôn.. “Trong số những dấu hiệu phản Tin Mừng sự sống ở Hoa Kỳ và nơi khác có một dấu hiệu gây tủi hổ sâu xa: đó là sự lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Nhiều người trong anh em đã nói với tôi về nỗi đau khổ hết sức lớn lao mà cộng động anh em phải chịu khi giáo sĩ phản bội nghĩa vụ và những bó buộc của LM qua cách hành xử vô luân trầm trọng như vậy... Anh em có lý khi ưu tiên chứng tỏ sự cảm thông và săn sóc các nạn nhân. Trách vụ Chúa trao cho anh em như những chủ chăn, là băng bó các vết thương do sự hủy hoại sự tín nhiệm gây nên, thăng tiến sự chữa lành, cổ võ hòa giải và tìm đến những người sai trái trầm trọng như vậy với lòng quan tâm yêu thương.

ĐTC không quên nhấn mạnh sự kiện đại đa số các LM tại Mỹ là những người tốt lành và ngài khích lệ các GM Hoa Kỳ rằng: trong nỗ lực chống lại nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, cần đặt các chính sách và chương trình trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Các trẻ em đáng được tăng trưởng trong sự hiểu biết lành mạnh về tính dục và chỗ đứng đúng đắn của tính dục trong quan hệ giữa con người với nhau. Các trẻ em cần được tránh khỏi những hiện tượng hạ giá và lèo lái tính dục đang thịnh hành ngày nay. Các em có quyền được giáo dục trong các giá trị luân lý chân chính, ăn rễ sâu trong phẩm giá con người. Điều này đưa chúng ta đặt gia đình và sự cần thiết thăng tiến Tin Mừng sự sống ở vị trí trung tâm. Nói về việc bảo vệ trẻ em có nghĩa lý gì khi mà dâm ô và bạo lực ngườt ta có thể xem thấy trong quá nhiều gia đình, qua các phương tiện truyền thông rất phổ biến ngày nay?

ĐTC khẳng định rằng: trong nỗ lực chống lạm dụng tính dục trẻ em, tất cả mọi người đều có một trách vụ phải chu toàn, không những các cha mẹ, các vị lãnh đạo tôn giáo, giáo chức và giáo lý viên, nhưng cả các phương tiện truyền thông và kỹ nghệ giải trí nữa. Mỗi phần tử trong xã hội đều có thể góp phần vào sự canh tân luân lý và được lợi ích từ sự canh tân ấy.

Vì thế, cần đối phó với tội lạm dụng tính dục trong một bối cảnh rộng lớn hơn về luân lý tính dục.

ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các GM Mỹ gần gũi các LM thuộc quyền trong thời buổi khó khăn hiện nay.. Và như Đức Gioan Phaolô 2 đã nói cách đây 6 năm: 'Chúng ta phải tín thác rằng thời kỳ thử thách đau thương này phải mang lại sự thanh tẩy cho toàn thể cộng đoàn Công Giáo”, đưa tới một hàng ngũ LM, GM và toàn thể giáo hội thánh thiện hơn” (Diễn văn cho các HY Hoa Kỳ ngày 23-4-2002). Có nhiều dấu hiệu có thấy trong thời gian qua, sự thanh tẩy ấy đang xảy ra. Sự hiện diện âm thầm của Chúa Kitô giữa những đau khổ của chúng ta dần dần biến tăm tối của chúng ta thành ánh sáng: mọi sự đang được đổi mới trong Chúa Giêsu Kitô, niềm hy vọng của chúng ta”.

ĐTC kêu gọi các GM tăng cường quan hệ với hàng giáo sĩ của mình, nhất là trong những trường hợp xảy ra căng thẳng giữa các LM và GM của mình vì cuộc khủng hoảng nói trên.

Sau khi ban phép lành vào cuối buổi hát kinh chiều, ĐTC còn ứng khẩu trả lời một số câu hỏi do các GM nêu lên về trao lưu tục hóa đang gia tăng trong đời sống công cộng, và chủ thuyết duy tương đối trong đời sống trí thức, sự kiện có những tín hữu Công Giáo bỏ hành đạo, một cách minh nhiên, nhưng cũng có nhiều người âm thầm không tham dự thánh lễ và không đồng hóa với Giáo Hội nữa.

ĐTC đặc biệt cảnh giác chống lại quan niệm của những tín hữu Công Giáo chỉ chọn lựa trong giáo lý và luân lý của Giáo Hội những gì mình ưa thích và bỏ qua những điều khác. Ngài khích lệ các GM Mỹ tăng cường việc mục vụ ơn gọi LM và tu sĩ, đồng thời nhấn mạnh tới sự cần thiết giúp các bạn trẻ cầu nguyện, tín thác vào ơn gọi của Chúa. Các GM cần dành những linh mục ưu tú nhất cho chủng viện. Các LM cần cộng tác với nhau, vượt thắng sự chia rẽ vô bổ, những bất thuận và thiên kiến.

Thánh lễ tại Sân vận động ”Công viên Quốc Gia”

Thứ năm 17-4-2008 là ngày chót ĐTC viếng thăm vùng thủ đô Washington. Ban sáng ngày cử hành thánh lễ cho các tín hữu tại Sân vận động Công Viên Quốc Gia (Nationals Park), và ban chiều ngài lần lượt gặp gỡ đại diện ngành giáo dục Công Giáo, và các vị lãnh đạo các tôn giáo khác.

 

Sân Vận Động Công Viên Quốc gia cách tòa Sứ thần chừng 10 cây số và là sân dã cầu tối tân nhất tại Mỹ vì mới được tổng thống Bush khánh thành hồi cuối tháng 3 vừa qua, có thể chứa được 45 ngàn người.


Rất đông các tín hữu đã xin vé để tham dự thánh lễ này, nhưng vì chỗ trong sân vận động giới hạn, nên phần lớn được dành cho giáo phận sở tại và lân cận, phần còn lại dành cho đại diện của các giáo phận khác. Nhiều tín hữu đã tới nơi từ lúc gần 6 giờ sáng, tức là 4 giờ trước khi thánh lễ bắt đầu. Nhiều tín hữu khác không được vé, nhưng họ vẫn tới gần nơi cử hành thánh lễ với hy vọng được thấy ĐTC.


Thánh lễ được cử hành với chủ đề Chúa Thánh Linh. Đồng tế với ĐTC có Đức TGM sở tại Donald Wuerl và 400 HY và GM Hoa Kỳ trong phẩm phục màu đỏ và hàng trăm linh mục trong phẩm phục màu trắng. Các vị ngồi trên sân cỏ trước lễ đài cao. Phần thánh ca do nhiều ca đoàn hàng trăm ca viên thật hùng hậu đảm trách.


Bài giảng


Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC ghi nhận những triển vọng đầy hứa hẹn cho nhân loại ngày nay, trở nên gần nhau hơn và lệ thuộc nhau hơn. Nhưng đồng thời chúng ta thấy có những dấu hiệu rõ ràng gây xáo trộn đổ vỡ ngay tại nền tảng của xã hội: những dấu hiệu làm tha hóa, phẫn nộ và trở nên cực đoan phe phái nơi nhiều người thời nay; bạo lực gia tăng, cảm thức luân lý suy yếu, quan hệ xã hội khô cằn hơn, và càng ngày người ta càng quên Chúa. Trong Giáo Hội cũng có nhiều dấu hiệu đầy triển vọng nơi các giáo xứ và phong trào sinh động, lòng hăng hái đối với đức tin nơi nhiều người trẻ, số người gia nhập Giáo Hội Công Giáo mỗi năm gia tăng... Nhưng đồng thời Giáo Hội nhiều khi cũng cảm thấy đau khổ vì sự chia rẽ và cực đoan trong nội bộ, và thái độ của nhiều tín hữu trái ngược với Tin Mừng... Vì thế, ĐTC nói, hôm nay, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện để Giáo Hội tại Hoa Kỳ được canh tân trong cùng một Thánh Linh, và được nâng đỡ trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho một thế giới đang khao khát tự do chân thành, hạnh phúc đích thực, và thỏa mãn những khát vọng sâu xa nhất của mình!


ĐTC kêu gọi Giáo Hội tại Hoa Kỳ tăng cường việc huấn giáo cho giới trẻ, giúp họ phân định rõ con đường dẫn tới tự do đích thực, con đường chân thành và quảng đạo theo Chúa Kitô, con đường dấn thân cho công lý và hòa bình.


ĐTC không quên nhắc đến những đau thương mà Giáo Hội tại Hoa Kỳ phải chịu vì nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Ngài nói: ”Trong bối cảnh niềm hy vọng phát sinh từ tình yêu và lòng trung tin của Chúa, tôi muốn nhìn nhận đau khổ mà Giáo Hội tại Mỹ đã phải chịu vì nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Không lời nào của tôi có thể mô tả hết nỗi đau khổ và tai hại mà sự lạm dụng ấy gây ra. Điều quan trọng là những người đã chịu đau khổ phải được quan tâm chăm sóc về mục vụ trong tình yêu thương. Tôi cũng không thể mô tả hết những thiệt hại nó gây ra giữa lòng cộng đồng Giáo Hội. Những cố gắng lớn đã được thực hiện để đối phó một cách lương thiện và tốt đẹp đối ví tình trạng bi thảm ấy, và đảm bảo cho các trẻ em được lớn lên trong một môi trường an toàn, những trẻ em mà Chúa yêu thương sâu xa và là kho tàng lớn nhất của chúng ta. Những cố gắng bảo vệ trẻ em phải được tiếp tục. Tôi đã nói với các GM của anh chị em hôm qua về vấn đề này. Hôm nay, tôi khuyến khích mỗi người trong anh chị em hãy làm những gì có thể để thăng tiến sự chữa lành và hòa giải, cũng như giúp đỡ những người bị tổn thương. Tôi cũng xin anh chị em hãy yêu mến các linh mục của mình và nâng đỡ các vị trong công việc rất tốt đẹp mà các linh mục đang thực hiện. Và trên hết, xin anh chị em hãy cầu xin Chúa Thánh Linh đổ tràn hồng ân của ngài trên Giáo Hội, hồng ân dẫn đến sự hoán cải, tha thứ và tăng trưởng trong sự thánh thiện.

 

Sau cùng, ĐTC mời gọi các gia đình và mỗi cộng đoàn giáo xứ và dòng tu hãy tín thác nơi sức mạnh của ơn thánh kể kiến tạo một tương lai theo lời Chúa hứa tại đất nước này. Nhân danh Chúa Giêsu, Tôi xin anh chị em hãy gạt bỏ mọi chia rẽ, và vui tươi hoạt động dọn đường cho Chúa, trong niềm trung thành với ý Chúa và luôn hoán cải theo ý Chúa. Nhất là tôi tha thiết kêu gọi anh chị em tiếp tục là men hy vọng của Tin Mừng trong xã hội Hoa Kỳ, nỗ lực mang ánh sáng và chân lý Tin Mừng trong sứ mạng xây dựng một thế giới công bằng và tự do hơn cho các thế hệ tương lai.


Trong phần lời nguyện giáo dân, các ý nguyện được xướng lên bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó cũng có một ý nguyện bằng tiếng Việt.


Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự nghi thức làm phép viên đá đầu tiên xây cất trường Công Giáo “Gioan Phaolô 2 Cả” trong giáo phận Arlington, giáp giới với Tổng giáo phận Washington, và một viên đá đầu tiên khác xây Nhà nguyện mới của Học viện Thánh Tômasô Aquinô tại thành phố Santa Paula, bang California.

Thánh lễ kết thúc lối 12 giờ trưa. Sau đó, ĐTC đã trở về Tòa Sứ Thần để dùng bữa và nghỉ ngơi, trước khi hoạt động trở lại với cuộc gặp gỡ giới giáo dục Công Giáo tại Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ và cuộc gặp gỡ Liên tôn tại Trung Tâm Văn Hóa Gioan Phaolô 2.

Mục lục

 

 

Giáo phận Hồng Kông hủy bỏ chuyến hành hương Sheshan để tham gia ngày cầu nguyện do Ðức Thánh cha kêu gọi và chuẩn bị cho tuần cửu nhật

Hồng Kông (UCAN HK04776.1492 Ngày 9-4-2008) - Giáo phận Hồng Kông vừa hủy bỏ kế hoạch đưa 500 khách hành hương đến thánh địa Ðức Mẹ Sheshan vào ngày 24-5-2008, ngày cầu nguyện đặc biệt cho Giáo hội Trung Quốc, sau khi chính quyền Trung Quốc nói việc làm này sẽ gây bất lợi.

Ðức Hồng y Joseph Zen Ze-kiun (Giuse Trần Nhật Quân) của Hồng Kông phát biểu với UCA News hôm 5-4-2008 rằng giáo phận dự định tổ chức chuyến hành hương này và tuần cửu nhật để hưởng ứng lời Ðức Thánh cha Bênêđictô XVI kêu gọi trong tông thư gửi các tín hữu Công giáo Trung Quốc năm 2007.

Tuần cửu nhật được tổ chức tại chín nhà thờ ở đây trong chín ngày, bắt đầu tại nhà thờ Chính tòa Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày 15-5-2008 và kết thúc vào ngày 24-5-2008 tại nhà thờ Ðức Bà phù hộ các giáo hữu, ngài cho biết.

Tông thư kêu gọi tất cả các tín hữu trong khắp thế giới cầu nguyện cho Giáo hội Công giáo Trung Quốc vào ngày 24-5-2008, ngày lễ Ðức Bà phù hội các giáo hữu. Với tước hiệu này, Ðức Mẹ được "sùng kính hết sức sốt sắng tại Thánh địa Ðức Mẹ Sheshan ở Thượng Hải", Ðức Thánh cha viết.

Tháng 7 năm 2007, ngay sau khi tông thư được phát hành ngày 30-6-2007, Ðức Hồng y Zen chủ sự ba buổi giới thiệu tông thư cho giáo dân địa phương. Vị giám chức gốc Thượng Hải nói với giáo dân rằng ngài muốn dẫn 1,000 người hành hương đến Sheshan tham dự ngày cầu nguyện năm nay.

Tuy nhiên, trong những tháng vừa qua các giới chức Trung Quốc muốn cho Vatican biết họ lo ngại về chuyến hành hương này, Ðức Hồng y Zen nói thêm. Ðể xoa dịu những lo lắng này, ngài đã quyết định không tham gia chuyến hành hương đó và cho tổ chức trên phạm vi nhỏ hơn.

Ngài tuyên bố: "Mục tiêu của chúng tôi là tổ chức cho người hành hương cầu nguyện tại Sheshan vào ngày 24-5-2008".

Linh mục Dominic Chan Chi-ming, tổng đại diện của giáo phận và là trưởng ban tổ chức chuyến hành hương, nói với UCA News rằng sáu chuyến hành hương được lên kế hoạch từ tháng Giêng năm 2008, mỗi chuyến có ít nhất một linh mục đi theo đoàn hành hương bằng xe buýt, theo những lịch trình và lộ trình khác nhau, nhưng tất cả đều tập trung lại và dâng lễ bằng tiếng Quảng Ðông tại Vương cung thánh đường Sheshan vào ngày 24-5-2008, ngài nói.

Giáo phận Hồng Kông đã đề nghị giáo phận Thượng Hải sắp xếp thời gian cho Thánh lễ này.

Ngoài ra, vì lịch sự, giáo phận cũng thông báo với Văn phòng Liên lạc của chính quyền trung ương ở Hồng Kông về chuyến đi này, và nói rõ Ðức Hồng y Zen sẽ không tham gia.

Giáo phận không thể đợi quá lâu để tổ chức chuyến hành hương, vì việc thu xếp đi lại mất nhiều thời gian, Ðức Hồng y Zen nói. Theo ngài, giáo phận Thượng Hải cuối cùng đã trả lời vào cuối tháng 3/2008, nói rằng chính quyền địa phương sẽ đứng ra thu xếp cho các chuyến viếng thánh địa. Vì lý do an ninh và ước đoán sẽ có rất đông khách hành hương đại lục đến Sheshan, ngài giải thích, nên các giới chức Trung Quốc quả quyết ngày 24-5-2008 không phải là một ngày tiện lợi cho người Công giáo Hồng Kông có mặt ở đó, mặc dù họ được hoan nghênh vào các ngày khác.

Ðức Hồng y Zen lưu ý: "Vì không tiện lợi cho họ, nên chúng tôi không muốn cổ vũ". Ngài nói thêm, ngoài ra cá nhân các linh mục và giáo dân vẫn có thể hành hương theo kế hoạch của mình, còn giáo phận Hồng Kông sẽ không đứng ra tổ chức.

Hôm 1-4-2008 giáo phận quyết định hủy chuyến hành hương Sheshan, cha Chan nói. Ngài và khoảng hơn chục linh mục dự kiến làm linh hướng cho các nhóm hành hương sẽ phải hủy bỏ chuyến đi, "nhưng chúng tôi hiểu rõ tình hình của giáo phận Thượng Hải".

Người Công giáo là người yêu chuộng hòa bình, ngài nói và tin rằng các chuyến hành hương này "sẽ diễn ra trong hòa bình".

Hai trong sáu chuyến đi này - xuất phát từ nhà thờ Thánh Giuse và nhà thờ Ðức Bà phù hộ các giáo hữu - tỏ ra quyết tâm đi hành hương, với tổng cộng khoảng 100 người Công giáo.

Linh mục chánh xứ Ðức Bà phù hộ các giáo hữu, thuộc dòng Salesian, nói với UCA News hôm 7-4-2008 rằng nhóm của ngài đã đăng ký dâng Thánh lễ tại Sheshan vào ngày 26-5-2008 để tránh có đông người vào ngày 24-5-2008. Nhóm của ngài cũng sẽ viếng thăm các giáo phận Nam Kinh và Tô Châu thuộc tỉnh Giang Tô, và giáo phận Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang trong chuyến hành hương từ ngày 23-28/5/2008.

Tháng 5, tháng kính Ðức Mẹ là mùa hành hương nhộn nhịp tại các hang đá Ðức Mẹ ở Trung Quốc đại lục, và Ngày Cầu nguyện 24-5-2008 có thể thu hút hàng chục ngàn người hành hương đến Sheshan.

 

UCA News

Mục lục

 

ĐTC tưởng nhớ sự đóng góp lớn lao cho Phúc Âm của ĐHY Ernesto, Tổng giám mục Mexicô

 

VATICAN (Zenit.org) - ĐTC Benedict XVI đã gửi điện chia buồn sâu sắc tới giáo phận Mexicô về sự ra đi của Đức Hồng Y Ernesto Corripio Ahumada, Tống Giám Mục Mexico, qua đời vào thứ 5 vừa qua ở tuổi 88.


Điện văn của Đức Thánh Cha được gửi đến ĐHY Norberto Rivera Carrera chia buồn về sự ra đi của Đức cố Hồng Y như một "vị mục tử sốt sắng" với "sự đóng góp vĩ đại cho công cuộc Phúc âm hóa".


Ngài nói: "Tôi đau buồn sâu sắc trước sự ra đi của ĐHY đáng kính Ernesto Corripio Ahumada, nguyên TGM Mexico, sau khi ngài chịu đựng cơn bệnh kéo dài trong thanh thản. Tôi muốn biểu lộ lời chia buồn chân thành của tôi tới Đức Hồng Y, tới thân bằng quyến thuộc của Đức cố Hồng Y Ernesto và tới toàn thể người dân Mexico. Tôi hiệp thông với ĐHY trong lời cầu nguyện cho vị mục tử nhiệt thành phục vụ Dân Chúa và phó thác linh hồn ngài cho lòng thương xót trong tay Cha Nhân Lành."


"Tôi tưởng nhớ đến sự nhiệt thành của ngài tại Tampico và sau này ngài phục vụ trong cương vị Tổng Giám Mục giáo phận Antequera, Puebla de Los Angeles và Mexico, cũng như trong cương vị chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Mexico trong nhiều năm, cũng không quên kể đến sự đóng góp lớn lao của ngài trong công cuộc truyền giảng Phúc Âm. Tất cả đều để nên chứng tá cho tình yêu vô bờ bến cho Thiên Chúa và Giáo Hội."


Về phần mình, ĐHY Rivera đã phát biểu như sau với vị tiền nhiệm: "Như điều xảy ra với mọi con người vĩ đại trên trái đất, sự ra đi của ĐHY Ernesto để lại một khoảng trống không thể lấp đầy, nhưng giữa chúng ta, lời dạy và cuộc đời chứng nhân đức tin là người Kitô hữu của ngài sẽ mãi còn hiện diện."


Đức cố Hồng Y Ernesto Corripio Ahumada được biết đến nhờ sự phục vụ của ngài đối với người dân Mexico bản xứ, ngài cũng là người khởi sự cho quá trình phong thánh của Thánh Juan Diego.


ĐHY Ernesto sinh năm 1919 tại Tampico và trải qua những năm tháng khó khăn nhất trong thời kỳ bách hại tôn giáo ở Mexico. Ngài được thụ phong Linh mục năm 1942, thụ phong Giám mục năm 1952 ở tuổi 33 và phục vụ trong cương vị Tổng Giám Mục thủ đô Mexico từ năm 1977 đến 1994.

Mục lục

 

LIÊN TU SĨ TPHCM BẦU BAN ĐIỀU HÀNH
NHIỆM KỲ 2008 - 2011



Sáng ngày 10.04.2008, sau buổi nói chuyện của Đức Hồng Y G.B Phạm Minh Mẫn với Liên Tu sĩ TP Hồ Chí Minh, đại diện các dòng tu có nhà chính tại Tổng Giáo phận đã bầu Ban Điều hành nhiệm kỳ 2008-2011.

Trước khi tiến hành bầu cử, cha Matthêu Vũ Khởi Phụng, một thành viên sinh hoạt trong Liên Tu sĩ TP HCM ngay từ ngày được thành lập sau 1975 và hiện là Chủ tịch, đã trình bày cho các bề trên biết sơ lược các sinh hoạt của hiệp hội này:

Liên Tu sĩ TP HCM đã tồn tại  hơn 30 năm. Những năm đầu sau 1975 sinh hoạt của các bề trên trong Hiệp hội chủ yếu để tìm một thái độ thống nhất với nhau trong việc ứng xử với thời cuộc.

Từ những năm 1990, khi các dòng nam được chính quyền xét cho chịu chức linh mục công khai, thì vai trò của Hiệp hội Liên Tu sĩ TP HCM, còn là giới thiệu và liên hệ thủ tục xin chịu chức cho các ứng viên của các dòng tu và tu hội.

Từ giữa những năm 1990, Liên Tu sĩ còn mở các lớp đào tạo thần học cho các tu sĩ nam nữ trong ngoài Thành Phố. Mới đầu là các lớp đào tạo ngắn hạn vào dịp hè. Tiếp theo là các lớp chính quy tập trung dài hạn. Hiện nay có 4 lớp thần học dành cho tu sĩ và 1 lớp thần học dành cho tu sĩ và giáo dân.

Cơ sở một đặt tại địa chỉ 44 Tú Xương, Tu viện của Dòng Đa Minh, là lớp thần học cho nam tu được mở từ năm 1993. Hiện đã có hơn 200 sinh viên tốt nghiệp từ lớp thần học này được chịu chức linh mục.

Cơ sở 2 đặt tại Trung tâm Mục vụ của Tổng Giáo Phận, là nơi đào tạo các nhà đào tạo cho các dòng nữ. Lớp này được mở từ năm 1992 và hiện đã có 808 nữ tu tốt nghiệp.

Cơ sở 3, đặt tại Dòng MTG Chợ Quán, dành cho các nữ tu của các Dòng MTG và một số dòng khác, được mở từ năm 1997 và hiện đã có 436 chị tốt nghiệp.

Cơ sở 4 là Học viện Nữ Đa Minh và một số dòng khác, hiện đang học tại DCCT Sài Gòn, 38 Kỳ Đồng, hiện chưa thống kê được số người tốt nghiệp.

Cơ sở 5 của Dòng La San, đặt tại Tu viện La San Bình Quới- Thanh Đa, dành cho các tu sĩ và giáo dân.  

Các lớp thần học trên đây có Ban Giám Đốc riêng, chịu trách nhiệm điều hành trực tiếp. Ban Điều hành Liên Tu sĩ TP HCM chỉ làm nhiệm vụ đại diện đăng ký thủ tục pháp lý cho các lớp thần học và chịu trách nhiệm về mặt pháp lý trước chính quyền, đồng thời liên hệ các công việc đột xuất khi cần thiết.

Thực tế các lớp trên đây bao gồm sinh viên của các dòng trên toàn cõi Việt Nam và vì thế đúng hơn Ban Điều hành Liên Tu sĩ đã bàn giao các lớp thần học này cho Hiệp hội Các Bề trên Thượng cấp. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, trong nhiệm kỳ vừa qua, Hiệp hội các Bề trên Thượng cấp chưa nhận.  

Liên Tu sĩ TP HCM trong những năm qua thường có Ban Đại Diện cũng là Ban Điều Hành, gồm 1 vị chủ tịch, hai vị phó chủ tịch và 1 vị thư ký. Mỗi chức vụ do một hội dòng đảm nhiệm. Ban Điều Hành thành lập một Tổ Công tác để trực tiếp làm nhiệm vụ liên hệ các công việc và bảo đảm các sinh hoạt thường xuyên hằng tháng của Liên Tu sĩ.

Ban Điều hành Liên Tu sĩ TP HCM cũng chịu trách nhiệm liên lạc với Đức Tổng Giám Mục và Tổng Giáo Phận khi cần thiết. Chẳng hạn vừa qua Đức Hồng Y xin 30 tu sĩ vào trong Hội đồng Mục vụ của Tổng Giáo phận, hoặc trong việc chuẩn bị Năm Thánh 2010 Đức Hồng Y xin cho 3 tu sĩ làm việc ở mỗi tiểu ban của Tổng Giáo Phận.

cha Gioan Baotixita Phương Đình Toại, Dòng Camillo, phụ trách chăm sóc các nạn nhân HIV-AIDS của Giáo phận, đã kêu gọi các dòng đóng góp nhân sự cho công cuộc phục vụ bệnh nhân HIV-AIDS tại Trung tâm Trọng Điểm ở Bình Phước. Trung tâm này mới được chuyển thành Bệnh viện Nhân Ái.

Cha G.B Dương Đình Toại cho biết Cộng đoàn Mai Linh của LiênTu Sĩ TP.HCM tại Bệnh viện Nhân Ái, hiện có 9 tu sĩ, phụ trách chăm sóc những 3 khoa. Trong thời gian này, con số các bệnh nhân bệnh nặng và qua đời khá nhiều, trong khi các nhân viên nhà nước lại thờ ơ vô cảm với những đau khổ của bệnh nhân. Do đó, các tu sĩ phải làm việc quá tải và không có thời gian chăm sóc sức khoẻ cho mình. Hậu quả một số nữ tu bị giảm sút và một số soeur gặp khủng hoảng.

Theo cha G.B Dương Đình Toại, sự hiện diện của các tu sĩ ở đây có giá trị chứng tá và hoán cải các bệnh nhân cũng như hoán cải các nhân viên Bệnh viện. Tuy nhiên, vì điều kiện làm việc khắc nghiệt cho nên sau khi mãn hạn phục vụ, một số tu sĩ trở về lại nhà dòng mà không có các tu sĩ khác thay thế. Nếu cứ tiếp tục tình trạnh này, cộng đoàn Mai Linh sẽ tan rã  và khi ấy quyền lợi và phẩm giá bệnh nhân không được bảo đảm, nhiều nguồn trợ giúp cho bệnh nhân cũng không được tiếp tục.

Ngài cho biết hiện tại Cộng đoàn Mai Linh cần có 15 tu sĩ và ngài xin các dòng đóng góp nhân sự cho chương trình bác ái chung này của Giáo phận. Được biết, để có nguồn nhân lực là tu sĩ bổ sung, Ngài và các đấng bậc hữu trách đã liên hệ với Sở Y Tế TP.HCM và Đại học Y Phạm Ngọc Thạnh để mở lớp Trung cấp Y tá chính quy cho các tu sĩ nam nữ. Chương trình kéo dài 2 năm, học phí 5,5 triệu/năm./.

Cha Mát thêu Vũ Khởi Phụng cho biết thời gian qua đi, các khó khăn đối với các dòng tu được từng bước giải gỡ, công việc hiện nay của Ban Điều hành Liên Tu sĩ cũng tương đối nhẹ nhàng và các dòng tu tu hội trong Tổng Giáo Phận cũng dễ mau mắn hợp tác và hiệp nhất trong các sinh hoạt khi được kêu gọi, vì vậy khi được bầu cử các dòng đừng ngại nhận nhiệm vụ .

Hiện nay Mát thêu Vũ Khởi Phụng đã được chuyển ra phục vụ tại Hà Nội hơn nữa, nhiệm kỳ công tác 2005-2008 cũng đã hoàn tất, vì vậy Liên Tu sĩ cần phải bầu một Ban Điều hành mới. Từ nhiệm kỳ trước các bề trên trong Hiệp hội Liên Tu sĩ đã thống nhất với nhau, dòng nào đã nhận nhiệm vụ Chủ tịch Ban Điều hành 2 nhiệm kỳ liên tiếp thì thôi không ứng cử chức vụ Chủ tịch. Theo đó, nhiệm kỳ này DCCT được miễn ứng cử.

Có một số bề trên các dòng lên trước cử toạ phát biểu các diễn văn xin không ứng cử và Ban Điều hành Liên Tu sĩ, nhưng không được chấp nhận. Kết quả bầu cử Dòng Salésien Don Bosco được bầu làm Chủ tịch Liên Tu sĩ TP HCM nhiệm kỳ 2008-2011. Hai dòng giữ nhiệm vụ Phó Chủ tịch là Đa Minh Việt Nam và MTG Gò Vấp. Dòng Phaolô Thành Chartres giữ nhiệm vụ Thư ký.

Cha Mát thêu Vũ Khởi Phụng đại diện đã chúc mừng các nhà dòng được bầu vào Ban Điều hành và cầu chúc một nhiệm kỳ công tác tốt đẹp. Cha Giuse Trần Hoà Hưng, Phó Giám tỉnh Dòng Salésien Dong Bosco, đã thay mặt các hội dòng được bầu

Mục lục

 

Biên Bản Cuộc Họp Ban Tổ Chức Năm Thánh 2010.

Saigòn, Việt Nam (Ngày 8-4-2008)

1. Ðể chuẩn bị cho Năm Thánh 2010, kỷ niệm 350 năm thành lập hai Giáo phận Tông toà Ðàng Ngoài và Ðàng Trong và 50 năm thiết lập Phẩm trật Giáo hội Công giáo tại Việt Nam với 3 giáo tỉnh Hà Nội - Huế - Sài Gòn, Ban Tổ Chức đã họp tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Saigòn, dưới sự chủ toạ của Ðức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn, để thống nhất đường hướng chung và phân công cụ thể. Cuộc họp bắt đầu lúc 9 giờ, ngày 8-4-2008.

 

Thành Phần Tham Dự

2. Tham dự cuộc họp gồm có:

- Ðức Cha Stephanô Nguyễn Như Thể, Tổng Giám mục Giáo phận Huế,

- Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám mục Giáo phận Hà Nội,

- Ðức Cha Phêrô Trần Ðình Tứ,

- Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc,

- Cha Tổng Ðại diện GB. Huỳnh Công Minh,

- Cha Inhaxiô Hồ Văn Xuân.

và các linh mục tổng thư ký của 14 uỷ ban giám mục:

- Lm. Giuse Trịnh Tín Ý (UB Văn Hoá),

- Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn (UB BAXH, UB Truyền thông),

- Lm. Rôcô Nguyễn Duy (UB Thánh nhạc),

- Lm. Phanxicô Vũ Phan Long (UB Kinh Thánh),

- Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm (UB Giáo lý Ðức tin),

- Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo (UB Phụng tự),

- Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSSR (UB Nghệ thuật thánh),

- Lm. Giuse Ðỗ Mạnh Hùng (UB Giáo sĩ - chủng sinh),

- Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải, CSSR (UB Tu sĩ),

- Lm. Giuse Tạ Huy Hoàng (UB Giáo dân),

- lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn (UB Mục vụ Gia đình),

- Lm. Ðaminh Ngô Quang Tuyên (UB Loan báo Tin Mừng),

- Lm. Giuse Ðỗ Ðình Ánh (UB Mục vụ Di dân).

Ðức cha Giuse Vũ Duy Thống và Lm. Gioan Lê Quang Việt (MV Giới trẻ) vắng mặt vì bận công tác.

 

Nội Dung

3. Mở đầu cuộc họp, Ðức Hồng y giới thiệu nội quy về việc Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành Năm Thánh 2010 đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam (HÐGMVN) phê chuẩn ngày 27-3-2008, trong Hội nghị Thường niên ở Ðền Thánh Ðức Mẹ Bãi Dâu, Vũng Tàu, và đề nghị một vài điểm sau đây:

3.1. Bầu Ban Thư ký Thường trực để làm việc thường xuyên với ngài. Ban Thư ký này làm cầu nối giữa vị Chủ tịch, Ban Tổ Chức (BTC) Năm Thánh và các tiểu ban chuyên môn cũng như phối hợp các hoạt động của các tiểu ban theo một đường hướng chung.

3.2. Ban Thư ký Thường trực gồm một số thành viên chính sau đây: Vị đại diện của Trung tâm Mục vụ (TTMV), Nhà Truyền Thống, Ðại Chủng viện (ÐCV) Thánh Giuse, người phụ trách truyền thông, một chuyên viên về Giáo luật, một chuyên viên về Phụng vụ, người phụ trách tài chính và bốn trưởng ban của tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử, tiểu ban Giáo hội Mầu nhiệm, tiểu ban Giáo hội Hiệp thông, tiểu ban Giáo hội Sứ vụ.

3.3. Ban soạn thảo Kỷ yếu 50 năm thiết lập phẩm trật Giáo hội Công giáo tại Việt Nam nên trình bày sự phát triển của Giáo hội Việt Nam theo hướng động với những phân tích về hoàn cảnh, lý do, động lực và đường hướng phát triển thay vì chỉ trình bày theo hướng tĩnh với những con số thống kê.

3.4. Ðức Hồng y cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc truyền thông về các hoạt động của BTC Năm Thánh đối với cộng đồng dân Chúa trong cũng như ngoài nước và đề nghị đưa lên trang web của HÐGMVN để nhiều người cùng tham gia góp ý.

4. Các thành viên tham dự cuộc họp đã đóng góp nhiều ý kiến xoay quanh chủ đề của Năm Thánh 2010 về Giáo hội Mầu nhiệm, Giáo hội Hiệp thông và Giáo hội Sứ vụ. Tất cả cùng nhận định rằng 3 chủ điểm này đều liên kết chặt chẽ với nhau và đặt nền tảng nơi Ðức Giêsu Kitô Mục tử qua các chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Người, đồng thời ba chủ điểm làm nền móng xây dựng 3 mối tương quan giữa Dân Chúa với Thiên Chúa (mầu nhiệm), với nhau (hiệp thông), với xã hội loài người (sứ vụ yêu thương và phục vụ).

 

Họp Riêng Các Tiểu Ban (từ 10g đến 11g)

5. Ban tổ chức được chia thành 5 nhóm:

+ Nhóm I gồm Ðức Hồng y và các đức cha tham dự, cha tổng đại diện Huỳnh Công Minh và cha Hồ Văn Xuân.

+ Nhóm II là tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử, gồm các cha Trịnh Tín Ý, Nguyễn Ngọc Sơn và cha Nguyễn Duy.

+ Nhóm III là tiểu ban Giáo hội Mầu nhiệm, gồm các cha Vũ Phan Long (OFM), Nguyễn Văn Khảm, Lê Tấn Bảo, Phạm Trung Thành (CSSR).

+ Nhóm IV là tiểu ban Giáo hội Hiệp thông, gồm các cha Ðỗ Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Khải (CCSR), Tạ Huy Hoàng, Nguyễn Anh Tuấn, Lê Quang Việt.

+ Nhóm V là tiểu ban Giáo hội Sứ vụ, gồm các cha Ngô Quang Tuyên, Nguyễn Ngọc Sơn, Ðỗ Ðình Ánh.

6. Mỗi tiểu ban bầu ra người trưởng ban để tham gia vào Ban Thư ký Thường trực, lên chương trình hoạt động cụ thể, giới thiệu các chuyên viên khác tham gia tiểu ban để BTC chính thức gửi giấy mời, biên soạn các câu hỏi theo 3 chủ điểm để hình thành nên tài liệu làm việc chuẩn bị cho Ðại hội dân Chúa Việt Nam 2010.

Các tiểu ban đã bầu chọn các trưởng ban sau đây: cha Trịnh Tín Ý (tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử), Nguyễn Văn Am (SDB) (tiểu ban Giáo hội Mầu nhiệm), Nguyễn Anh Tuấn (tiểu ban Giáo hội Hiệp thông) và Ngô Quang Tuyên (tiểu ban Giáo hội Sứ vụ).

 

Họp Chung Toàn Ban Tổ Chức (từ 11g đến 11g45)

7. Các nhóm đã báo cáo kết quả làm việc nhóm và hội nghị đã nhất trí một số điểm sau đây:

7.1. Năm Thánh 2010:

- Sẽ được khai mạc ở TGP Hà Nội vào ngày lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, 24-11-2009,

- và sẽ bế mạc tại TGP Huế ngày lễ Hiển Linh, 2-1-2011.

- Ðại hội dân Chúa Việt Nam sẽ được tổ chức tại TGP Saigòn, từ ngày 21 đến 28-11-2010.

7.2. Về tài chính, BTC yêu cầu mỗi giáo phận đóng góp 1,000USD lúc khởi đầu và trong mỗi giáo phận sẽ tổ chức 1 ngày để quyên góp cho Ðại hội. BTC không vận động quyên góp nơi các cộng đồng Việt Nam hải ngoại, sẵn sàng nhận sự đóng góp của các cá nhân và tổ chức nào muốn giúp đỡ cho BTC Năm Thánh.

7.3. Ban Thư ký Thường trực gồm các linh mục sau đây:

- Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm (TTMV), Trưởng ban

- Lm. Giuse Trịnh Tín Ý (Nhà Truyền Thống)

- Lm. Giuse Ðỗ Mạnh Hùng (ÐCV Thánh Giuse)

- Lm. Gioan Bùi Thái Sơn (Giáo luật)

- Lm. Rôcô Nguyễn Duy (Phụng vụ)

- Lm. Giuse Nguyễn Văn Am (tiểu ban GH Mầu nhiệm)

- Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn (tiểu ban GH Hiệp thông)

- Lm. Ðaminh Ngô Quang Tuyên (tiểu ban GH Sứ vụ)

- Lm. Inhaxiô Hồ Văn Xuân (Tài chính)

- Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn (Truyền thông), Thư ký

7.4. Phân công Ban Cố vấn:

- Ðức cha Phêrô Trần Ðình Tứ, tư vấn cho tiểu ban GH Mầu nhiệm.

- Ðức cha Phaolô Bùi Văn Ðọc, tư vấn cho tiểu ban GH Hiệp thông.

- Ðức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể, tư vấn cho tiểu ban GH Sứ vụ.

- Ðức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Ðức Cha Giuse Vũ Duy Thống, tư vấn cho BTC Năm Thánh.

- Lm. Tổng Ðại diện GB. Huỳnh Công Minh, tư vấn cho tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử.

7.5. Các ý kiến:

- Ðề nghị các tiểu ban nên họp nhau sớm để có định hướng chung cho việc phác thảo tài liệu làm việc và gửi về cho Ban Thư ký Thường trực tổng hợp thành một tài liệu thống nhất và trình lên Hội đồng Giám mục trong Hội nghị tháng 9-2008 ở Xuân Lộc. Tài liệu phổ biến cho cộng đồng dân Chúa nên được trình bày dưới hình thức dễ hiểu, nhắm đến lợi ích mục vụ nhưng đồng thời cũng nên có tài liệu nghiên cứu, đào sâu về khía cạnh thần học dành cho các thành phần khác như linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân ưu tuyển.

- Ðề nghị Ðức Hồng y soạn một thư mời chính thức cho các trưởng ban có thể dùng để mời thêm các chuyên viên khác tham gia hoạt động của các tiểu ban.

- Việc truyền thông giữa các tiểu ban với nhau và với cộng đồng dân Chúa hết sức quan trọng để mọi người tham gia vào việc cử hành Năm Thánh cũng như để tránh những hoạt động trùng lấp, tốn công sức của nhiều người. Vì thế, các tiểu ban nên thường xuyên liên lạc với nhau và báo cáo mọi hoạt động cho Ðức Hồng y Chủ tịch, Ban Thư ký Thường trực cũng như các vị giám mục chủ tịch các uỷ ban liên hệ của HÐGMVN. Một mục thông tin đặc biệt về Năm Thánh 2010 đã bắt đầu được mở từ ngày 9-4-2008 trên trang web của HÐGMVN, theo địa chỉ http://www.v2.hdgmvietnam.org

- Các thông tin muốn chuyển cho nhau giữa các tiểu ban và gửi lên trang web, xin gửi về địa chỉ email: ubttxh@hdgmvietnam.org hay vpubttxh@gmail.com. Uỷ ban Thông tin Xã hội của HÐGMVN và văn phòng sẽ là chiếc cầu nối thông tin cho cộng đồng dân Chúa về Năm Thánh 2010.

- Các tác giả viết bài nghiên cứu về lịch sử cũng như các bài soạn thảo chuẩn bị cho cuốn Kỷ yếu 50 năm sẽ được trả thù lao. Các trưởng ban gửi các chi phí chuẩn bị cho Năm Thánh của các tiểu ban đến Lm. Inhaxiô Hồ Văn Xuân.

- Ban Thư ký Thường trực sẽ họp kỳ tới vào lúc 9giờ, ngày 22-4-2008, tại Trung tâm Mục vụ TGP Saigòn.

8. Cuộc họp kết thúc vào lúc 11g45 cùng ngày, sau khi các thành viên cùng chụp bức ảnh lưu niệm trước Nhà Truyền Thống TGP Saigòn.

Các thành viên BTC cùng dùng bữa cơm thân mật do Nhà Truyền Thống khoản đãi.

 

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn tổng kết

Mục lục

 

Đoàn Đại Chủng viện Xuân Bích (Huế) thăm Toà Giám Mục Vinh và Đại Chủng viện Vinh - Thanh

     Chiều ngày 29 - 3 - 2008, phái đoàn hành hương Đại Chủng viện Huế gồm 2 cha giáo và 22 phó tế (Khoá IV) đã ghé thăm Toà Giám Mục Vinh và Đại Chủng viện Vinh - Thanh

     Sau tiệc gặp mặt thân mật và kinh tối tại Đại Chủng viện Vinh- Thanh , các phó tế Đại Chủng viện Huế đã có cuộc giao lưu chia sẻ những ưu tư về công tác mục vụ với các chủng sinh khoá VII (sẽ mãn khoá vào ngày 31 - 5 tới). Hai bên đã cởi mở trao đổi về tác vụ mà những mục tử trẻ sẽ đảm nhận  trong giai đoạn hội nhập hiện nay, đồng thời sẻ chia  những kinh nghiệm quý giá cho hành trang phục vụ.

     Sáng ngày 30-3 (Chúa Nhật II Phục Sinh), sau khi tham dự dự thánh lễ tại Toà Giám muc, đoàn đã điểm tâm tại Đại Chủng viện. Trước lúc chia tay, Cha Bề Trên Đại Chủng viện Vinh - Thanh J.B Nguyễn Khắc Bá đã nói lên tâm tình biết ơn sâu sắc đối với Đoàn Đại Chủng viện Huế đã ghé thăm và giao lưu chia sẻ cùng đại Chủng viện Vinh -Thanh. Đáp từ, thầy đại diện các phó tế của phái đoàn bạn đã xúc động cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu của Ban Giám Đốc và anh em chủng sinh Vinh - Thanh và hy vọng được đón tiếp đoàn Đại Chủng viện Vinh - Thanh tại Đại Chủng viện Xuân Bích trong một ngày gần.

    Ước mong và nguyện chúc chuyến hành hương Phục Sinh của Đoàn vẹn trọn bình an và thu được nhiều thành quả.

 J.B Nguyễn Quốc Tuấn (K.9 - ĐCV Vinh Thanh)

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

VẤN NẠN CỦA ĐỨC KITÔ:

 

“ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” ( Ga 14, 8 ). Bắt nguồn từ DoThái giáo, niềm tin Kitô giáo cho hay rằng hạnh phúc thật là được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa. Thế mà xưa nay chưa từng có ai nhìn thấy tôn nhan Thiên Chúa mà còn sống. Ngay cả Môsê, vị ngôn sứ vĩ đại, người được ưu tuyển đàm đạo với Giavê diện đối diện mà cũng chỉ được phép nhìn thấy Thiên Chúa phía sau lưng Người ( x.Xh 33,21-23 ). Và chúng ta đừng ngạc nhiên trước lời yêu cầu của Philipphê. Tuy nhiên chúng ta cần phải ngạc nhiên với câu trả lời của Chúa Giêsu: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” ( Ga 14, 9 ). Trong thân phận con người, cái yếu tố hữu hình, một trong những yếu tố của nhân tính mà Con Thiên Chúa đón nhận khi nhập thể đã trở thành chướng ngại.


“Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà tự cho mình là Thiên Chúa” ( Ga 10, 33 ). Giả như Chúa Kitô nhập thể, nhập thế trong thời đại hôm nay thì số phận của Người sẽ không khác xưa. Đấng vô hình lại ở trong kiếp hữu hạn, hữu hình ư ? Đấng sáng tạo lại mang kiếp được tạo thành, mong manh sao ? Thật khó mà chấp nhận cũng như đón nhận. Ngay cả các môn đệ, các tông đồ, ở với Thầy bấy lâu nay mà vẫn chưa biết rằng Thầy với Chúa Cha là một. Dù đã tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng trong tâm trí các tông đồ lúc bấy giờ thì Thầy cũng chỉ là một con người được Thiên Chúa sai đến, hay là một đại ngôn sứ mà thôi. Tâm trí các ngài còn nhiều tăm tối u mê, không thể hiểu nổi lời của Thầy cũng như căn tính của Thầy cho đến khi Thầy phục sinh từ cõi chết và Thánh Thần được trao ban ( x.Ga 16,13 ). Cho đến tận thế, với người chưa tin, Đức Kitô Giêsu dù “là viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường mãi vẫn là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã” ( x. 1 P 2,7-8 ). Nhập thế vào đời, Chúa Kitô là hình ảnh của Chúa Cha. Đã là hình ảnh thì tồn tại sự hạn chế của cái khả giác.


VẤN NẠN CỦA HỘI THÁNH:


Tôi tin Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Tôi tin Hội Thánh là Hiền Thê tinh tuyền xinh đẹp của Đức Kitô. Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền… Những lời tuyên xưng trên đây phải chăng đã được chấp nhận và đón nhận cách dễ dàng với tất cả những người tin vào Đức Kitô ( Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, Tin lành ) ? Với người khác niềm tin, khác chính kiến thì đã rõ. “ Chúa Kitô loan báo Nước Trời và Hội Thánh lại đến !” Câu nói hàm chứa sự mỉa mai lẫn sự chê bai, ngờ vực của một văn sĩ thế kỷ ánh sáng khiến chúng ta nhận ra vấn nạn luôn còn đó. Nhìn chung vấn nạn thường xoay quanh tính hữu hình của Hội thánh Chúa.


Giáo lý Công giáo nêu rõ: “Chúa Kitô thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, không hề phạm tội, chỉ đến để đền tội cho dân; còn Hội Thánh, vì ôm ấp trong lòng những kẻ tội lỗi, nên vừa thánh thiện vừa phải luôn thanh luyện mình. Do đó, Hội Thánh luôn nỗ lực sám hối và canh tân. Tất cả các chi thể của Hội Thánh, kể cả các thừa tác viên, phải tự nhận là người tội lỗi…” ( GLCG chung số 827 ). Quả là một mầu nhiệm không dễ thấu đạt. Với anh em ngoài Hội Thánh thì càng khó hơn nhiều. Hội Thánh là hiện thân của Đức Kitô theo dòng thời gian. Thế mà nhiều khi chân dung Đức Kitô lại bị biến dạng do bởi một số chi thể “què quặt hay mù loà về tâm linh lẫn nhân cách” hoặc do bởi cái cơ chế đã có khi mang dáng vẻ quá trần tục của Hội Thánh. Các chướng ngại hay cớ vấp phạm xuất hiện do bởi các nguyên nhân khách quan cũng có nhiều mà do bởi các nguyên nhân chủ quan cũng không thiếu.


VƯỢT QUA CHƯỚNG NGẠI:


Vấn nạn của cái khả giác dường như là muôn thuở. Làm sao để vượt qua nó ? Chúa Kitô đã khai mở: “Nếu ta không làm các việc của Cha Ta thì các ông đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm các việc đó thì ít ra hãy tin các việc Ta đã làm” ( Ga 10,37-38 ). Những việc của Đức Kitô thực hiện là dẫn đưa nhân loại đến cùng sự thật, đến cùng sự sống, vì Người “là đường, là sự thật và là sự sống” ( Ga 14,6 ). Người đến thế gian này “là để làm chứng cho sự thật” ( Ga 19,37 ). Chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và cho chúng ta được sống và sống dồi dào ( x.Ga 8,32; 10,10 ).


Tuy nhiên một thực tế thật khó phủ nhận vẫn tồn tại. Đó là rất nhiều người đương thời với Chúa Giêsu đã nghe lời chân lý của Người, đã chứng kiến các kỳ công vừa cao cả vừa đượm đầy tình yêu của Người, vẫn chưa hoặc không biết Người và tin nhận Người. Chúa Giêsu đã mở thêm một con đường mới, có thể nói là con đường tuyệt hảo cuối cùng, đó là chịu treo trên thập giá và tuôn ban Thánh Thần từ Trái Tim Cực Thánh của mình. Ngay đêm tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho các ngài: “ Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu” ( Ga 13,18-19 ). “ Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm” ( Ga 19,37 ). Và “ Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Ta Hằng Hữu” ( Ga 8,28 ). “ Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” ( Ga 12,32 ). Với tình yêu được trao ban, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu không quản ngại hiến dâng của Đức Kitô thì chúng ta mới có thể thốt lên như Tôma: Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con. Quả thật nói như lời thánh Tông Đồ dân ngoại rằng không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa nếu không được Thánh Thần thúc đẩy.


Trở lại với chuyện của Hội Thánh. Trò không thể hơn thầy. Để Hội Thánh ngày càng trở nên bí tích của Đức Kitô cách khả tín và hữu hiệu hơn, thiết nghĩ rằng mỗi phần tử của Hội Thánh cần can đảm đối diện với sự thật, sống trong sự thật đồng thời tích cực thực thi công lý và tình yêu. Tuy nhiên, xin đừng quên chính khi bị đâm thâu cạnh sườn, chính khi bị treo lên cao để cho tình yêu tuôn ban thì đó mới là lúc căn tính của Hội Thánh được hiển lộ cách rõ nét. Chính khi bị nguyền rủa, chúng ta vẫn chúc lành; bị bắt bớ chúng ta vẫn yêu thương; bị vu khống, chúng ta vẫn chia lời ủi an, hay nói như thánh Phanxicô Axidi là đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp…( x.1Cor 5,12-13 ), đó là lúc chúng ta làm cho tha nhân thấy rằng không phải ta sống mà là Chúa Kitô đang sống trong ta.


Đức Bênêđictô XVI tuyên bố “ cuộc đời và các hoạt động của các vị thánh đã góp phần to lớn làm nên chân dung Hội Thánh”. Ông Tertulianô khẳng định: “ máu của các thánh tử đạo là hạt giống phát sinh người tín hữu”. Đức Gioan Phaolô II trong ngày tuyên phong hiển thánh 117 vị tử đạo Việt nam đã nhấn mạnh rằng hạt giống ấy là ngoài các vị thánh tử đạo trước đây thì ngày nay là tất cả những ai đang chịu áp bức, bóc lột mà vẫn trung kiên trong niềm tin, là tất cả những ai đang tìm hiểu và sống mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô. Thánh giá bài trừ sự gian dối, bài trừ tội ác và giúp ta sống trong bình an và tha thứ ngay tại môi trường ta đang sống.


Dù là điên dại với người Hy lạp hay là cớ vấp phạm với người DoThái thì thập giá vẫn mãi là dấu chỉ cao cả của tình yêu. Vì không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu ( Ga 15,13 ). Và thập giá Chúa Kitô mãi là nguồn ơn cứu độ. Chính trên thập giá, Chúa Kitô đã trao ban Thánh Thần cho chúng ta từ Trái Tim bị đâm thâu của Người. Xin Thánh Thần Thiên Chúa, là Thần Chân Lý, là Nguồn Tình Yêu ở cùng chúng ta, ở cùng Hội Thánh cho đến ngày Đức Kitô quang lâm ( x. Kh 22,17 ). Nhờ Thánh Thần, chúng ta có thể tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa. Với Thánh Thần, chúng ta sẽ làm cho muôn dân nhận ra chúng ta là môn đệ của Đức Kitô và đích thực là Kitô hữu.

 

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Mục lục

 

Bài nói chuyện của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đà Lạt nhân ngày Quốc tế cầu nguyện cho ơn gọi

 

Sáng nay khi chuẩn bị lên xe qua Chánh tòa, tôi được tiếp đón 30 chị em nữ tu Mến Thánh Giá Thái Lan cùng một cha hướng dẫn. Trong câu chuyện, tôi cho biết hôm nay có buổi gặp mặt nhân ngày Quốc tế cầu nguyện cho ơn gọi tại nhà thờ Chánh Tòa. Họ hỏi thăm về tình hình Giáo phận, về linh mục, tu sĩ… nghe đến đâu thì họ xuýt xoa đến đó, vì những gì họ biết chỉ qua sách vở chứ chưa được đến tận nơi. Khi hỏi và biết số giáo dân trong Giáo phận khoảng 313.000, họ ồ lên và nói bằng số giáo dân cả nước Thái Lan ! Tôi cười và nói lại : Không đâu, nếu tôi không lầm thì Thái Lan có đến 400.000 giáo dân…

 

Nếu phái đoàn nhìn thấy quang cảnh này, chắc họ sẽ không bao giờ quên và chỉ mong Giáo phận, đất nước của họ được như một Giáo phận hay một Giáo hạt thì đã quý lắm rồi.

 

Số giáo dân trong một Giáo phận gần bằng số giáo dân của một quốc gia … nói ra không phải để hãnh diện, nhưng để chúng ta biết đón nhận hồng ân của Chúa, để thấy rằng những gì chúng ta đang có thật quý báu, để chúng ta nhớ đến và biết ơn các mục tử tiền bối và để chúng ta phải biết trân trọng những gì mình hiện đang có. Vì vậy, tôi mong mọi việc trong ngày hôm nay, anh chị em hãy làm với tâm tình tạ ơn, với quyết tâm để sống tốt hơn.

 

Đề tài hôm nay tôi muốn chia sẻ với anh chị em vừa sâu sắc, vừa thực tế … vì xuất phát từ Giáo hội Mẹ. Tôi cũng phải học hỏi để biết quý trọng những gì xuất phát từ Giáo hội, phải chọn lựa và biết từ bỏ những riêng tư của mình. Trước đây, tôi cũng thuộc loại cấp tiến trong phụng vụ, từ lúc còn làm thầy, thấy điều gì hay là bắt chước, thấy điều gì mới là làm. Dần dần được Chúa dạy bảo, dù mới dù hay, nhưng quan trọng là phải xuất phát từ Giáo hội Mẹ mới có ơn Chúa Thánh Thần, mới có sự hiệp thông. Mỗi khi nói đến nét đẹp của Giáo phận, với 13 dòng nam, 35 dòng nữ và gần 130 cộng đoàn, mỗi người là một thế giới, một suy nghĩ, một ý kiến khác nhau, nhưng chỉ trong lòng Hội Thánh và bởi ơn Chúa Thánh Thần chúng ta mới có được sự hiệp thông, một sự hiệp thông đáng trân trọng, rồi mỗi hội dòng, mỗi tu đoàn hãy mang đặc sủng của mình để góp phần vào thì vườn hoa Hội Thánh sẽ rất đẹp : muôn màu muôn sắc, không nhàm chán nhưng luôn hấp dẫn…

 

Đề tài của lần thứ 45 ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi là “Ơn gọi phục vụ Giáo hội truyền giáo”, chỉ riêng tựa đề đã quá nhiều. Dựa vào sứ điệp của Đức Giáo Hoàng, tôi xin nói về : Ơn gọi - Phục vụ - Giáo Hội - Truyền giáo.

 

1. Ơn gọi căn bản, ơn gọi đầu tiên, ơn gọi nền tảng là ơn gọi Kitô hữu. Là Giáo hoàng thì cũng đã là Kitô hữu, nếu vì một lý do nào đó phải chọn một Giáo hoàng, sau khi bầu chọn mới biết vị ấy chưa chịu phép Rửa tội, thì ngài phải được Rửa tội trước đã. Nếu cử hành Phép Rửa cho người trên 14 tuổi, theo Giáo luật, thì có Bí tích Thêm sức và Bí tích Mình Thánh Chúa. Ba Bí tích này (Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể) là nền tảng ơn gọi của hơn 1 tỷ người. Không phải hơn 1 tỷ người làm Giáo hoàng, đi tu hay lập gia đình, nhưng hơn 1 tỷ người đã được Rửa tội. Vậy việc Rửa tội là một nghi thức khẳng định ơn gọi : Bí tích Rửa tội cho chúng ta được quyền làm con Chúa và như thánh Phaolô nói thêm là được thừa hưởng gia tài của Thiên Chúa. Gia tài của Thiên Chúa là Nước Trời, là sự sống đời đời. Được làm con Thiên Chúa thì trở nên người em của Đức Giêsu Kitô, vì Ngài là Con Một Chúa Cha. Ơn gọi của chúng ta là biến đổi cuộc sống này nên lời ca ngợi, chúc tụng, thành của lễ đền tội, của lễ hiến dâng, của lễ cầu xin. Ơn gọi chung của mỗi người qua Bí tích Rửa tội, được thêm sức mạnh bởi Bí Tích Thêm Sức, được nuôi dưỡng bởi Bí tích Thánh Thể, làm cho chúng ta thông phần vào các chức năng “ngôn sứ, tư tế và vương đế của Đức Kitô”. Phải nhắc lại để thấy rằng một khi đã là con của Chúa thì chúng ta được tất cả những điều đó. Chính ơn gọi căn bản đã rất quý giá, nếu sống trọn vẹn ơn gọi đó thì thật sự đã nên thánh và cũng đã chiếm được Nước Trời rồi.

 

Trong chương trình của Thiên Chúa chắc chắn ơn gọi này không chỉ dành cho hơn 1 tỷ người mà là cho mọi người. Thiên Chúa không giới hạn, nhưng giới hạn chỉ có do con người biết tiếp nối chương trình yêu thương của Thiên Chúa, có thực hiện ý muốn của Thiên Chúa hay không mà thôi. Mọi người đều được Thiên Chúa tuyển chọn và yêu thương. Nếu có phân tích các ơn gọi chỉ là nhằm hiểu biết thêm, để quý trọng, chứ nếu để đào sâu ngọn ngành thì chúng ta không làm được, vì đó là ý muốn của Thiên Chúa, mà ý muốn, sự khôn ngoan của Thiên Chúa thì chúng ta không thể hiểu thấu. Thiên Chúa mạc khải nhưng Ngài không biến suy nghĩ của chúng ta trở nên không còn là của con người ; vì vậy phải biết chấp nhận giới hạn của mình và tin vào việc Thiên Chúa tuyển chọn. Điều Thiên Chúa làm luôn luôn tốt đẹp, thánh thiện, không thể có một cách khác.

 

Ở đây có một cha mà nếu được yêu cầu, ngài sẽ đưa tay và xin Đức Cha cho hát một bài, và chắc chắn sẽ là bài “Chúa không lầm”. Lầm hay không là mình, còn Chúa chẳng bao giờ lầm. Đó là sự tuyển chọn trong đời sống ơn gọi đặc biệt, Chúa muốn gọi ai thì Ngài gọi, gọi cách nào, gọi ra sao thì do Ngài. Có những người, trong sự khôn ngoan Thiên Chúa đã gọi, đó là chúng ta. Chúng ta là gì, là ai ? Chẳng là gì và chẳng là ai, nhưng đã được Chúa gọi.

 

Ông Isai có nhiều người con, người thì cao lớn, người đẹp đẽ, người mạnh khỏe, nhưng Chúa đã chọn cậu út Đavít. Mỗi người một tài năng, một vẻ đẹp, nhưng cuối cùng Chúa chọn một chú giúp lễ nhỏ bé tầm thường Samuen. Điều đó để cho thấy có ơn gọi cho mọi người, không ai bị loại và đừng bao giờ than thân trách phận.

 

2. Cần nói ngay : Chúa gọi để làm gì ? Chắc chắn không phải để thưởng công cha mẹ. Chúng ta cũng có lầm lẫn đó, tôi xin lỗi có hơi nhạy ở chỗ gọi ba mẹ mình là “ông bà cố”. Chúa gọi là để phục vụ, để làm tôi tớ. Làm sao để khắc sâu vào đầu, ăn sâu vào con tim, làm sao chúng ta luôn nhớ đến chữ phục vụ : Tôi làm Giám mục để phục vụ, mà phải phục vụ nhiều hơn anh em linh mục ; Giám mục là tôi tớ, mà phải làm tôi tớ nhiều hơn anh em linh mục, vì tôi được chọn giữa các linh mục là những người Chúa đã tuyển chọn. Điều đó chi phối cả cuộc sống chúng ta, biến đổi chúng ta, làm chúng ta trở nên đích thực là mình, nếu không chúng ta chỉ giả dạng mà chưa sống như Chúa muốn.

 

Biết được ơn gọi phục vụ để sống. Thưa anh chị em, đó là diễm phúc đời tu. “Ta đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ”. Khi nghĩ rằng mình được phục vụ thì kể từ giây phút đó, chúng ta sẽ dần đánh mất bản chất của mình, không còn đi vào con đường Chúa gọi, nhưng sẽ đi vào đêm tối, cô đơn, thất vọng, vì được phục vụ sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn.

 

Tôi chia sẻ thật lòng một điều. Có người hỏi tôi : thưa Đức Cha, làm Giám mục được bao nhiêu năm rồi, Đức Cha thích nhất điều gì ? Tôi thấy câu hỏi xem vậy mà khó trả lời ! Nhưng có lúc tĩnh lặng nhìn lại cuộc đời mình thì thấy trong chức Giám mục có một điều rất hay, hay nhưng mình không hưởng, hoặc chưa hưởng đủ. Trước khi đi tu, tôi không nghĩ hết những lý do thâm sâu để đi tu, mình chưa đến trình độ đó và Chúa cũng không đòi hỏi. Lúc 7-8 tuổi, thích đi tu để mỗi sáng được uống càphê sữa !!! Mơ ước uống càphê sữa không xấu, nhưng Chúa dùng điều đó để lôi cuốn mình. Lớn hơn một chút, nghĩ rằng đi tu làm lnh mục thì được làm lễ, được giúp người khác… Rồi nếu không được làm linh mục ? Tôi lại nghĩ không được làm linh mục thì sẽ làm bác sĩ, vì mình cũng giúp được người khác. Nhưng nếu mình không có khả năng làm bác sĩ thì sẽ làm gì ? Thì làm luật sư để bênh vực những người nghèo, người bị áp bức…

 

Rồi khi làm linh mục cũng có những khát vọng, mơ ước : giá như các nhà thờ ở thành phố này được như thế này, thế khác… Cho nên một trong những điều tôi nghĩ nó hấp dẫn (theo nghĩa tốt) : nếu là Giám mục của một Giáo phận, với những gì mình ao ước thực hiện thì bây giờ anh đã có được phương tiện, có điều kiện, anh có giỏi cứ thực hiện. Nội chuyện đó cho thấy được chứ không phải bị làm Giám mục. Được có nghĩa là đã đến lúc, nếu anh có những thao thức thánh thiện, có những mơ ước thì hãy hành động, đừng ngồi mà chờ đợi.

 

Tôi lấy ví dụ, một trong những mơ ước là đến ngày đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ Đạ-Tông, tất cả những người dân tộc đi dự lễ đều có một ổ bánh mì thật dòn !!! Vì thỉnh thoảng trong công việc, tôi gặp gỡ các em thiếu nhi hoặc những thanh niên dân tộc, khi đến giờ ăn tôi đưa tiền để các em mua thức ăn, nhiều khi nghĩ các em sẽ ăn cơm, ăn bánh cuốn hay một món gì đó, nhưng lần nào cũng vậy, y như rằng các em chỉ thích bánh mì thịt, nhưng phải là bánh mì nóng, cắn vào thật dòn tan… em nào đi Đàlạt thì thỉnh thoảng còn được ăn, còn bao nhiêu em khác ở Đạ-Tông làm gì có !!! Nếu được ăn một ổ bánh mì thịt nóng dòn ngay tại Đạ-Tông, chắc các em rất vui thích…

 

Trước ngày lễ đặt viên đá khoảng 1 tháng, chúng tôi đã mời tiệm bánh vào hẳn trong Đạ-Tông làm cho khoảng 10 ngàn người, nhưng vì họ không có nhân sự và không đủ điều kiện... Một mơ ước nhỏ, mơ ước cho người dân tộc được ăn bánh mì thịt nóng dòn, nhưng cũng chưa thực hiện được !!!

 

Anh chị em hãy có mơ ước trong đời sống là phục vụ. Làm linh mục, làm tu sĩ mà không có mơ ước phục vụ thì đừng làm. Hãy có khao khát đó, bằng không hãy sống một ơn gọi khác mình cũng sẽ nên thánh, cũng có thể giúp người khác, cũng vào Nước Trời. Có khao khát phục vụ thì khi được giao công việc, dù lo lắng nhưng vẫn có niềm an ủi khi nghĩ đến công việc này là lý tưởng của mình. Ơn gọi của chúng ta là phục vụ, lẽ dĩ nhiên có ơn gọi sống tận hiến, ơn gọi dâng mình cho Chúa… Đúng, nhưng tất cả là để phục vụ.

 

Trong sứ điệp nhấn mạnh khía cạnh tình thương, khởi từ hình ảnh Chúa Giêsu “chạnh lòng thương” khi Ngài đứng trước đám đông những người nghèo khó, bệnh tật, cô đơn, bị bóc lột, bị áp bức… Chắc chắn Chúa Giêsu không dừng lại ở việc lót bụng về vật chất, Ngài còn khao khát cho họ bữa ăn tinh thần, khi trên thập giá Ngài thốt lên “Ta khát” cũng là khát phần rỗi. Phải có tâm tình đó, phải biết rung động, lúc bấy giờ Chúa nói với chúng ta “chính anh em hãy cho họ ăn”.

 

3. Chúng ta vừa nói đến ơn gọi phục vụ, nhưng phải nói rõ : Phục vụ trong Hội Thánh. Vì vậy mới có hội dòng này hội dòng khác, tu hội này tu hội khác. Tức là chúng ta vẫn có một nguồn gốc là chính Chúa Giêsu, chính Ngài kêu gọi, thánh hóa và sai đi ; việc đó Ngài làm qua Giáo hội. Nên khi khấn dòng thì luôn hiểu rằng mình thuộc về một hội dòng để thi hành một phần chức năng của Hội Thánh, phải có sự gắn bó đó. Tôi trở lại với hình ảnh của Giáo phận : Gần 130 cộng đoàn lớn nhỏ, nam-nữ, văn hóa, truyền giáo, phát triển hay bác ái… tất cả. Chúng ta biết là mình đã được tháp nhập vào Thân thể Chúa Kitô, mà hình ảnh sống động cụ thể là Giáo phận. Tính liên đới với Giáo phận làm cho chúng ta luôn vững bước trong con đường được Chúa sai đi. Có những trường hợp khiến tôi mãi băn khoăn : một vài nơi vì hoàn cảnh, vì thiếu nhân sự nên chúng ta chưa có tổ chức cộng đoàn ; với những người chưa biết Chúa thì không ai giúp họ hiểu biết thêm về Đạo, người muốn theo Đạo cũng không có ai dạy dỗ, người mới theo Đạo, đức tin còn mơ hồ không có ai giúp kiện toàn tại những nơi đó…

 

Vào những vùng xa như Lộc Bắc, Lộc Phú, Sơn Điền… hoặc các buôn làng dân tộc… là những nơi rất cần truyền giáo. Thỉnh thoảng thấy có nhóm này nhóm khác đến với anh chị em đó… Vừa mừng vừa lo, mừng là thấy còn có những người chăm sóc, có người nói về Chúa. Lo là chưa thấy thể hiện sự hiệp thông với Giáo phận mà chỉ xuất phát từ lòng nhiệt tình hay vì một lý do nào khác…

 

4. Phải có sự hiệp thông trong Giáo hội mà phải là Giáo hội truyền giáo, nghĩa là Giáo hội được Chúa quy tụ để sai đi. Quy tụ để nghe Chúa dạy bảo, sống lời Chúa, cầu nguyện, lo cho phần rỗi của mình, chống lại tà ma xác thịt… thì chưa phải là hình ảnh Giáo hội mà Chúa muốn, vì Giáo hội Chúa muốn là phải ra đi, ra đi đến tận cùng bờ cõi trái đất để rao giảng Tin mừng.

 

Một người có chức vụ khá lớn trong một cơ quan tài trợ nói với tôi : chúng tôi nhận rất nhiều hồ sơ xin trợ giúp, nhưng thưa Đức Cha, khi họ trình bày vấn đề mà không có mục đích truyền giáo thì không bao giờ chúng tôi xét tới. Họ hiểu sứ mạng của họ cũng góp phần vào việc truyền giáo.

 

Ơn gọi - phục vụ - Giáo hội - truyền giáo. Những điều tôi vừa chia sẻ chẳng là gì, chẳng thấm vào đâu ; nhưng không phải việc tôi nói mà là việc Chúa Thánh Thần nói với từng người qua dịp này. Tôi chỉ biết gửi gắm, cầu nguyện, để với những chia sẻ, học hỏi, với những việc đạo đức thánh thiện, với những niềm vui… tất cả, làm cho chúng ta trở nên người tông đồ như lòng Chúa mong muốn.

 Giáo phận Đà Lạt

Mục lục

 

Chân trời rộng mở

Cảnh người con theo cha mẹ đi dạo, đi đến trường học, ra chợ phố mua sắm…hay cảnh một đoàn xe chạy theo nhau đi trên một con đường, vượt qua những khúc lên xuống đến nơi điểm hẹn, làm ta nhớ đến lời Chúa Giêsu nói. Thầy là đường!

Đường Chúa Giêsu noí đến đây là đường gì? Chúa Giêsu vừa là Con Thiên Chúa lại cũng là đường thế nào được?

Tấm bản đồ tìm đường

Ngày nay khi đi đến chỗ nào, ta thường mở bản đồ xem trước. Trên bản đồ vẽ ghi lại những con đường chi chít ngang dọc, những địa điểm khác nhau. Nhưng để nhận ra con đường mình đi muốn tới, người xem phải tìm định vị được phương hướng địa điểm ở vùng phía: đông, tây, nam, bắc. Rồi từ đó tìm ra con đường nơi chốn. Có thế mới không đi lạc đường.

Trong đời sống đức tin cuốn sách Kinh Thánh tựa như tấm bản đồ ghi lại những lời chỉ bảo giáo huấn của Chúa Giêsu, mà khi xưa Ngài trên bước đường 03 năm rao đã giảng về Nước Thiên Chúa.

Trong sách Kinh Thánh ghi thuật lại những việc Ngài đã làm, những Lời Ngài giảng phần lớn theo kiểu những dụ ngôn bình dân ngắn gọn theo sát với thực tại cuộc sống, như dụ ngôn người chăn chiên, dụ ngôn người cha nhân lạnh với đứa con hoang đàng trở về, dụ ngôn nước Trời như một bà góa mất đồng bạc, như ngườì đi buôn bán tậu mua ruộng vườn…

Phương hướng sách Kinh Thánh chỉ, tựa như một „ Compa“, là con đường cầu nguyện, con đường sống tình người bác ái yêu thương.

Ngoài ra trong thiên nhiên, nếu không có bản đồ trong tay, nhìn lên mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao chỉ dẫn hướng lối cũng giốn như Chúa Giêsu chỉ lối trong sách Kinh Thánh.

Mặt trời mọc lên từ hướng Đông, di chuyển lặn xuống ở phía Tây, chiếu tỏa ánh sáng hơi âm xuống cho địa cầu súc vật, cây cối cùng con người.

Mặt trăng cùng các ngôi ban đêm không chỉ chiếu tỏa ánh sáng trên bầu trời cho đẹp thi vị, nhưng giúp tầu bè vượt sông biển, giúp người đi trong rừng rậm nhận ra phướng phía Bắc tìm đường đi, đển khônh bị lạc lối mất phương hướng.

Con đường Giêsu

Con đường trong các niềm tôn giáo là một hình ảnh quan trọng trong đời sống con người. Họ là người lữ hành trên đường đời, luôn di chuyển, không được dậm chân tại chỗ. Và như thế đời người lữ hành thay đổi biến chuyển.

Con đường nào cũng có một đích điểm tới. Đích điểm đường đời con người là sự sống và kiến thức. Nhưng con đường dẫn đến đích điểm thường dài cùng phức tạp khó khăn, rất nhiều khi phải trải qua những con đường vòng sang lối ngõ khác, hay đi lạc đường, hay qua những khúc gập ghềnh chật hẹp cực nhọc.

Ngày xưa dân Do Thái từ nước Ai Cập trở về đất Thiên Chúa hứa cũng đã phải trải qua sa mạc khô cằn hiểm trở. Dẫu vậy, họ đã tin tưởng nơi Ngài và để Ngài hướng dẫn về tới quê hương.

Chúa Giêsu qủa quyết: Thầy là đường, có ý muốn nói Ngài là con đường dẫn đưa tới Thiên Chúa, nơi là trung tâm nguồn sự sống.

Con đường Chúa Giêsu không là con đường bằng phẳng, không có khó khăn hy sinh. Trái lại, đó là con đường thánh gía, con đường có nhiều khúc gập ghềnh hoang mang, có cả bóng mờ tối che khuất tầm nhìn của con mắt thường nữa: con đường đời sống tâm linh.

Con đường tâm linh đòi hỏi cố gắng không ngừng vươn lên, cũng không được tự mãn hay bi quan phóng đại thái qúa.

Con đường tâm linh của Chúa Giêsu là con đường giáo dục bản thân trong chiều sống hướng thượng lên Trời cao và chiều ngang chân trời sống với con người.

Một con đường chân trời mở rộng.

Lm. Nguyễn ngọc Long

Mục lục

 

ÍT MÀ NHIẾU

 

Ít mà nhiều,

Vòi nước trong bồn rửa mặt, từng giọt nước thỉnh thoảng chảy xuống. Vài giọt nước có đáng là gì. Vâng, không đáng là gì. Nhưng khi đặt ca nhựa hứng lại, sau một đêm, ca nước gần đầy có thể rửa mặt được. Rồi ban ngày cũng vậy...

Ít mà nhiều,

Hoa cây Bàng bé bé xinh xinh rụng xuống đất, nhìn kỹ cũng dễ thương. Bé tí xíu thì đáng là gì. Nhưng khi quét sân gom lại cũng cả nửa thúng.

Ít mà nhiều,

Trái cây dầu thì không lớn, khi gió thổi ngang, chúng quay tít rồi rụng xuống từng trái, trông đẹp mắt, hấp dẫn. Nhưng ôi, chiều đến quét gom lại cũng được vài thúng.

Ít mà nhiều,

Nhìn thấy vài con mối bò trên kệ sách, chẳng ăn thua gì, tôi nghĩ vậy. Tiếc quá, quên đi một thời gian, xem lại, chẳng những sách mà cả kệ gỗ cũng đã bị chúng ăn sạch.

Ít mà nhiều,

Còn nhỏ, lấy vài trái ổi, quả soài, vài chục ngàn, đôi dép, bộ quần áo không lớn lao gì. Đúng vậy. Nhưng lớn lên, cả xóm đặt tên cho là đại ca, vua trên hết các vua về chôm chỉa, trộm cắp.

Ít mà nhiều,

Với điều xấu, thấy rõ ít, rõ nhỏ, nhưng lâu ngày và hành động được lập đi lập lại thì điều xấu nhỏ biến thành sự dữ đáng sợ. Lương tâm dần dần bị khô cằn già nua không còn nhạy bén, không còn phát hiện được điều dữ nữa, bởi con người đã được làm quen với tội một cách từ từ. Và ta làm nhiều điều xấu mà cứ nghĩ là ít, phạm nhiều tội lớn cứ nghĩ là nhỏ, chẳng ăn thua gì, không đáng bận tâm. Làm nhiều việc ác cứ nghĩ là việc thiện. Sống trong tội lại tưởng mình thánh thiện.

Sự dữ đục khoét lương tâm, cắn xé nhân phẩm con người từng ngày, nếu không cẩn thận, ta sẽ đánh mất nhân cách, uy tín, danh dự và đạo đức làm người, làm con Chúa.

Ít mà nhiều,

Nếu không biết cúi xuống lượm một xu, thì không xứng đáng xoè tay nhận một đồng.

Ơn Chúa vậy, như những giọt nước, từng ân huệ được ban xuống.

Nếu biết dùng ca hứng lại, biết mở lòng ra hứng nhận sẽ được đầy ca ân sủng, đầy lòng cứu độ, đầy tràn sự sống.

Con người không thể chỉ đón nhận ân sủng, đức tin một lần nhưng là từ từ.

Mỗi ngày con người sẽ thêm no, bớt đói, ít khát nhờ đón nhận ân sủng.

Mỗi ngày ơn Chúa đều ban xuống cách cụ thể : trong Thánh lễ, chia sẻ Lời Chúa, suy gẫm, chầu Thánh Thể; rồi đến các việc đạo đức khác : chặng đàng thánh giá, lần chuỗi Mân côi, kính lòng thương xót Chúa… Và còn có rất nhiều hội đoàn cho ta tham dự vào các thời gian khác nhau trong ngày : Hội thánh Giuse, Đaminh, Vinhsơn, Phanxicô, con Đức Bà…Ta chỉ cần mở lòng, xoè tay ra đón nhận là được, Chúa không đòi hỏi ta bất cứ điều kiện nào ngoài khát mong những ơn Ngài ban giúp ta trưởng thành, sinh hoa kết trong đường đức tin, trong lòng mến và biết phó thác vào Ngài.

Nếu không biết trân trọng ơn ban của Chúa, dù nhỏ, thì ta không xứng đáng nhận lãnh ân sủng trường sinh.

Nếu không biết khao khát và quý trọng ơn trên, thì ta không xứng đáng vào nước Chúa hưởng sự sống muôn đời.

Thanh Thanh

Mục lục

TÀI LIỆU TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN NHA TRANG

BÀI VI

LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN

 

 

Sau cuộc tĩnh tâm, chúng ta lại trở về với đời thường của chúng ta. Ðối với đa số các cha, trở về đời thường có nghĩa là trở về với giáo dân. Có thể nói được rằng giáo dân chính là cuộc đời, là bổn phận, là gia đình thiết thân nhất của linh mục. Xét cho cùng thì chúng ta làm linh mục là vì giáo dân, cho giáo dân và với giáo dân. Vì thế, có thể nói được rằng giáo dân chính là tấm màn hình phản ảnh sự thành công hay thất bại của đời linh mục chũng ta.

Pastores dabo vobis số 22-23 đã diễn tả sứ mệnh của linh mục với giáo dân như sau : "Là mục tử của cộng đoàn, linh mục sống và hiện hữu vì nó; vì nó mà cầu nguyện, học hỏi, làm việc và hy sinh. Và chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn sàng thí mạng, yêu mến nó như Ðức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Ðức Kitô càng ngày càng xinh đẹp hơn, xứng đáng được Chúa Cha quí chuộng và Chúa Thánh Thần yêu thương. Chiều kích hôn ước này của đời sống linh mục-Mục Tử buộc linh mục hướng dẫn cộng đoàn bằng sự phục vụ hết mình toàn thể cộng đoàn và từng thành viên".

Phải nói rằng đây là một trích đoạn tuyệt vời về tâm hồn mục tử một linh mục cần phải có đối với đoàn chiên của mình. Chúng ta hãy dựa vào đó để cùng nhau ôn lại sứ mệnh và vai trò của linh mục chúng ta đối với giáo dân.

Cũng như trong những bài gợi ý trước, tôi giả thiết các cha đã quán triệt phần triển khai lý thuyết. Tôi chỉ xin dừng lại và nhấn mạnh một vài biểu hiện tiêu cực, nghĩa là những bất cập mà chúng ta thường vấp phải khi đối xử với giáo dân.

1.SỐNG VÀ HIỆN HỮU VÌ CỘNG ÐOÀN

Hiện hữu vì đoàn chiên có nghĩa là linh mục phải biến đời mình thành của ăn cho giáo dân. Chức linh mục của chúng ta được gọi là chức linh mục thừa tác. Ðiều đó có nghĩa là, theo thứ tự thời gian, cộng đồng tín hữu có trước linh mục. Có Dân Chúa rồi mới đặt thừa tác viên để phục vụ. Có giáo xứ rồi Giám mục mới sai người làm quản xứ về. Trong thực tế, linh mục chúng ta thường hành động ngược lại. Chúng ta xử với giáo dân như là cha đẻ của họ.

Một trong những điều Việt Kiều hay than phiền nhất là linh mục Việt nam quá quan liêu. Không thể vơ đũa cả nắm rằng linh mục nào cũng quan liêu. Cũng không thể lấy lốí sống của linh mục Tây Phương làm mẫu mực cho linh mục Việt Nam được. Nhưng ngược lại cũng không thể phủ nhận một phần sự thật trong nhận xét trên đây.

Lúc còn là các chú, chính mắt tôi đã thấy một cha chỉ mới 35 tuổi, sau khi truyền phép Mình thánh, rời bàn bàn thờ xuống ghế giáo dân tát một cụ già đáng tuổi bố ngài. Lý do là vì lúc dâng Mình Thánh Chúa, ông già này điếc nên rên rỉ cầu nguyện to tiếng quá. Có lần tôi kể chuyện này cho một số cha nghe, có vị đã nói đùa rằng : "thảo nào mà trước đây người ta đấu tố linh mục".

Có những hành vi đã thành quán tính nhưng sai vẫn là sai. Giáo lý thì cha không thuộc. Khi dò cha phải cầm sách. Nhưng giáo dân quê mùa dốt nát không thuộc thì cha vất cả sách, xua đuổi, rồi giam lại mút chỉ cho đến khi thuộc. Với những câu chuyện như thế, thay vì là người phục vụ, linh mục trở thành kẻ đàn áp.
Không những với con chiên, nhiều linh mục còn có thái độ bất cập đối với người bên lương. Rất nhiều người không muốn theo đạo khi lập gia đình với người bên giáo là vì thái độ hống hách của linh mục.

Thỉnh thoảng có những trường hợp người bên lương lần đầu tiên đến với linh mục cũng là lần cuối cùng. Có khi họ chỉ cố gắng lo xong thủ tục nhà đạo cho được việc rồi vĩnh biệt nhà thờ, thậm chí còn cấm người nhà không được tiếp tục giữ đạo. Chỉ vì họ không chịu được thái độ cửa quyền của linh mục. Giáo dân chịu đựng các cha đã quen rồi nên không đến nỗi có vấn đề, nhưng người bên lương chưa quen nên chịu không nổi. Con nghĩ rằng cho đến nay, Giáo hội công giáo Việt Nam không thành công lắm trong mặt trận truyền giáo. Chúng ta chỉ bảo quản nhiều hơn là bành trướng. Tệ hơn thế nữa, khi có thái độ chướng nghịch với người bên lương, chẳng những chúng ta không bảo quản được mà còn làm mất thêm người của Giáo Hội.

Tài chánh cũng là một trong những lý do linh mục làm cho giáo dân buồn phiền. Một số giáo xứ, mỗi lần sắp tổ chức lễ lớn, giáo dân lại ngao ngán than van vì cha xứ sắp bổ nhân danh. Thậm chí lễ ngân khánh, những ngày kỷ niệm của riêng cha, cha cũng bổ nhân danh. Phí tổn thì giáo xứ chịu nhưng bì thư phải gom hết lại đưa cho cha tất tần tật.

Người giáo dân Việt Nam trong thời đại chúng ta đa số đang rất nghèo. Giáo dân tại phía Bắc bình quân một ngày không kiếm nổi một ngàn đồng. Họ khổ từ chỗ ăn chỗ ở cho đến chỗ đi cầu. Nhưng họ rất thương linh mục, sẵn sàng nhường hết những ngọt bùi ưu đãi cho chúng ta. Thế mà nhiều khi lối sống của chúng ta lại rất vô tình đối với họ.

2."VÌ CỘNG ÐOÀN MÀ CẦU NGUYỆN".

Ngoài lối cư xử đời thường, linh mục còn phải thể hiện vai trò mục tử khi cử hành phụng vụ, hay nói theo lời trích Pastores dabo vobis, phải "vì đoàn chiên mà cầu nguyện". Trong Tông Thư Dies Domini về Ngày chủ Nhật ở số 1, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết : "Lời thánh vịnh 118 câu 24 : "Ðây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ" thật rất xứng hợp với Thánh Lễ chủ nhật". Có nghĩa là phải biến ngày chủ nhật thành một ngày vui cho giáo dân.

Mỗi tuần giáo dân đi lễ có một lần, có khi từ rất xa. Thế mà nhiều khi chỉ gặp được bộ mặt hình sự của linh mục. Tôi xin mượn hình ảnh bình accus để diễn tả : Giáo dân cần năng lượng tinh thần. Họ giống như những chiếc bình accus, mỗi lần họ gặp linh mục là để nạp, để xạc, để kín múc niềm vui. Ngày chủ nhật của linh mục sẽ ý nghĩa hơn nếu cùng với việc dâng lễ cho giáo dân, chúng ta phấn đấu để tặng cho mỗi giáo dân một nụ cười, một ánh mắt yêu thương, một lời nói khích lệ. Hãy làm một cái gì đó, hãy chuẩn bị một cái gì đó cho giáo dân mỗi lần chúng ta tiếp xúc với họ. Ðức cha phó thì con chưa biết nhưng đức cha chính mình có nhân đức chụp hình với giáo dân. Có lần tôi hỏi làm sao đức cha có thể kiên trì với hàng trăm người như thế. Ngài trả lời rằng mình không đến thăm họ được thì để lại cho họ một tấm hình để họ cảm thấy mình hiện diện bên cạnh họ. Bên Tây, trước lễ chủ tế đón giáo dân và sau lễ tiễn chân họ.

Nhiều người chúng ta chẳng những không có một cử chỉ yêu thương nào cho giáo dân ngày chủ nhật mà còn làm cho giáo dân mất vui. Có cha cau có gắt gỏng từ đầu lễ đến cuối lễ, có khi gạt cả micro và sách lễ xuống đất, làm cho bầu khí căng thẳng nặng nề, biến bàn thờ thành một nơi nạt nộ giáo dân. Lễ thì giảng đến bốn bài. Một bài áo dòng ba bài áo lễ. Cả bốn bài đều mang một nội dung chung là mắng mỏ, hăm doạ, khiển trách, thậm chí bôi bác giáo dân giữa nhà thờ. Bài giảng không dọn nên cha giống như máy bay không tìm được phi trường. Chúng ta làm khổ giáo dân, tra tấn lỗ tai họ, biến họ thành nạn nhân hơn là nâng tâm hồn họ lên. Người nói thường không cảm thấy dài nhưng đối với người nghe là cả một sự chịu đựng, nhất là khi chúng ta không có lợi khẩu.

Diễn đàn Lời Chúa là diễn đàn tình thương nhưng rất nhiều cha lợi dụng để trút hết căm hờn vào đó. Không gì mâu thuẫn bằng linh mục lại là thủ phạm gây chia rẽ trong giáo xứ bằng chính lời nói của chủ chăn. Ðôi khi chúng ta muốn tất cả mọi giáo dân phải về phe chúng ta ủng hộ chúng ta. Chúng ta tìm cách trừng trị triệt hạ những người đối lập. Không làm được thì chúng ta đem ra giữa nhà thờ đê bêu diếu bôi bác.
Rất nhiều cha bực mình với giới trẻ đi lễ không chịu vào nhà thờ. Chúng ta có xu hướng nghĩ rằng người giáo dân đời mới khô khan vô kỷ luật nhưng thật ra ở sâu xa vấn đề họ chán linh mục hay ít ra là linh mục không tạo được hấp lực đối với họ. Có một cha đuổi thanh niên vô nhà thờ nó trả lời rằng tin Chúa nhưng con không thích cha.

Phải làm thế nào để mỗi lần nghĩ đến linh mục ngày chủ nhật hay lúc dâng thánh lễ, người giáo dân cảm thấy hứng thú vì nhớ lại thái độ tình nghĩa vui vẻ của linh mục, nhất là làm cho họ cảm thấy lời giảng của linh mục thực sự đem lại cho họ một sức sống mới.

3.MỤC TỬ NHƯ LÒNG CHÚA MONG ƯỚC.

"Yêu mến nó như Ðức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Ðức Kitô". Tôi nghĩ rằng đây là bí quyết để linh mục huấn luyện con tim mục tử của mình có được sự nhạy cảm của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn đám đông không người chăn dắt mà chạnh lòng thương. Phải đạt cho tới trình độ hễ nhìn thấy dân là thương. Theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, đám đông luôn là một đàn chiên bơ vơ. Họ cần đến mục tử chăn dắt họ, họ cần đến linh mục. Nếu không tạo được một con tim mục tử, tự khắc chúng ta sẽ biến mình thành một tên Pharisiêu đã bị Chúa Giêsu lên án là chất lên vai người khác những gánh nặng mà chính mình không vác được.
Ta đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào. Ðó là tuyên bố của Chúa Giêsu. Ðó cũng là điều bằng mọi giá chúng ta phải đạt được trong đời linh mục của chúng ta. Quả vậy đó là một câu nói rất ý nghĩa. Sự có mặt của vị linh mục trong đời của họ có khi đã đục khoét những lỗ hổng quá lớn. Ðó là một điều thật đáng tiếc. Phải làm thế nào để sự có mặt của linh mục trong đời giáo dân phải là một cái gì tích cực: làm cho họ được sống và được sống dồi dào.

Có thể nói không quá đáng rằng phải thương giáo dân mới là cha xứ. Không thương dân không phải là linh mục, không phải là cha xứ. Người giáo dân sẵn sàng châm chước cho linh mục ngay cả khi các ngài mắc phải những lỗi lầm nghiêm trọng, miễn là họ thấy linh mục yêu thương họ.

Tôi nghĩ rằng không quá thừa nếu chúng ta lặp lại câu trích ở đầu phần này : Ðối với đoàn chiên, linh mục phải "yêu mến nó như Ðức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó".

 

Kết luận

Lại nói chuyện chụp hình. Mỗi lần cảm thấy cực khổ vì phải chụp hình với giáo dân con đều nhớ đến mẫu gương của đức cha chính. Nhờ vậy mà cho đến nay tôi vẫn còn chịu khó được. Chụp hình thì phải cười lúc đầu chưa quen có ai nhắc mới cười, nhưng bây giờ hễ thấy cái máy thì môi tự động vén lên. Ðó là một phản xạ. Trong đời linh mục chúng ta, yêu thương giáo dân phải là một phản xạ.

ĐGM. Giuse Nguyễn Chí Linh

 

Mục lục

 

SỐNG CHỨNG NHÂN

TRINH NỮ RWANDA, THÀ CHẾT CHỨ KHÔNG PHẠM TỘI

Quá nửa đêm thứ bảy rạng Chúa nhật 9-10-1977, người ta tìm thấy một tử thi vấy máu của một thanh nữ. Tử thi được đưa ngay đến nhà thương giảo nghiệm. Kết quả: thanh nữ bị hiếp dâm nhưng kháng cự nên bị đâm chết. Thanh nữ tên Dafroza Nyirabahinde - 21 tuổi - và là phó hiệu trưởng ”Trường Học gia đình” ở Kamonyi, gần Kigali, thủ đô Rwanda. Xin nhường lời cho cô Madeleine - bạn đồng nghiệp - kể lại cuộc sống và những giờ sau cùng của cô trinh nữ.

Chúng tôi không rõ những gì đã xảy ra. Chúng tôi chỉ cảm thấy nỗi buồn mênh mông xâm chiếm tâm hồn. Tuy nhiên, nỗi buồn hòa lẫn với niềm vui sâu xa trong THIÊN CHÚA, bởi vì, qua cái chết dũng cảm, cô bạn thân yêu của chúng tôi trở thành chứng nhân của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Kể từ đầu niên học, toàn nhóm giáo viên chúng tôi vui hưởng niềm an bình chan hòa trong bầu khí học đường. Chúng tôi dấn thân phục vụ giới trẻ, chu toàn nghĩa vụ nhà giáo dục Công Giáo. Chúng tôi hết lòng yêu thương học sinh. Tôi còn nhớ như in một ngày, Dafroza đi như bay vào phòng tôi và tươi cười nói:

- Mình vừa dạy xong một bài học tôn giáo tuyệt hay nơi lớp! Mọi học sinh đều khóc vì cảm động!

Chúng tôi tổ chức một buổi lễ nơi trường học để đánh dấu niềm vui. Chúng tôi đâu ngờ buổi lễ tình thân huynh đệ cũng là buổi tiễn biệt: buổi lễ sau cùng của Dafroza nơi cõi đời này! Khoảng 3 giờ chiều thứ năm ngày 6-10-1977, chúng tôi bắt đầu cuộc vui ”igitaramo” nghĩa là buổi canh thức kéo dài đến khuya. Dafroza cũng cảm thấy có lý do để vui, vì cô vừa tiếp nhận một số học sinh vào lớp nhất.

Thứ sáu hôm sau, chúng tôi biểu lộ niềm vui trong buổi phụng vụ cử hành Thánh Thể. Một cô bạn của Dafroza đọc bài sách thánh trích từ sách tiên tri Daniel, kể lại thị kiến Con Người trong vinh quang. Chúng tôi không bao giờ quên bài đọc này, vì nó giúp chúng tôi nhìn qua lăng kính Đức Tin những gì THIÊN CHÚA muốn đối với Dafroza.

Ban chiều cùng ngày, chúng tôi họp nhau cầu nguyện. Sau buổi cầu nguyện, Dafroza nhắc tôi mang hoa như đã hứa để cô đem theo khi đi dự lễ cưới cô bạn gái tên Laurence. Sáng thứ bảy 8-10-1977, trước 6 giờ, Dafroza vui vẻ ra đi tham dự đám cưới, với bó hoa cầm tay. Tôi nói:

- Chào Dafroza nghe! Nhớ chuyển lời chúc mừng đến Laurence!

Khoảng 10 giờ rưỡi tối, một số bạn gái muốn rời tiệc cưới trở về nhà. Dafroza cũng vậy. Cô theo nhóm bạn đi trên chiếc xe cam nhông nhỏ. Khi đến Kamonyi - gần nhà Dafroza - cô nài nĩ tài xế cho cô xuống. Nhưng ông nhất định giả điếc làm ngơ. Ông đưa cô đi xa hơn và thảm kịch xảy ra sau đó.

Chính nơi nhà thương thủ đô Kigali mà tôi nhìn lại gương mặt cô bạn lần cuối cùng. Chuyện gì đã xảy ra? Chúng tôi không rõ. Chỉ có một điều chúng tôi biết, đó là: Dafroza đã từ chối không để ông tài xế chạm đến thân xác mình. Cô can đảm chiến đấu đến cùng. Cô bảo vệ đức trinh khiết bằng chính cái chết của mình.

Dafroza rất đơn sơ thật thà và có con tim trong trắng. Cô luôn luôn mĩm cười vui vẻ. Tôi nhớ những lần chúng tôi họp nhau cầu nguyện, Dafroza thường cất tiếng hát bài thánh ca cô ưa thích:

- Trên đường con đi xin THIÊN CHÚA hãy là ánh sáng soi dẫn đời con.

Và THIÊN CHÚA trở thành Ánh Sáng soi dẫn đoạn đường đời cuối cùng của Dafroza. Vâng, đúng thế! Trong Thánh Lễ an táng Dafroza - bạn gái đồng nghiệp thân yêu - chúng tôi cất tiếng ca ngợi THIÊN CHÚA, bởi vì Ngài đã chọn một trinh nữ đơn sơ khiêm tốn để làm nên việc trọng đại. THIÊN CHÚA thực hiện kỳ công nơi người con của Ngài là Dafroza Nyirabahinde!

Vị Linh Mục chủ sự lễ an táng đọc một câu mà Dafroza đã viết trong tuần lễ trước đó:

- Hãy luôn giữ mối dây hiệp nhất trong niềm vui của THIÊN CHÚA và hãy yêu mến THIÊN CHÚA bằng một tình yêu nồng nhiệt!

... “Em là đóa thủy tiên của Sarôn đồng bằng, là bông huệ thắm hồng trong thung lũng. Bạn tình tôi giữa đoàn thiếu nữ có khác gì cánh huệ giữa bụi gai .. Này em gái của anh, người yêu anh sắp cưới, em là khu vườn cấm, là dòng suối canh phòng nghiêm mật, là giếng nước niêm phong, là địa đàng xanh non mầm thạch lựu đầy hoa thơm trái tốt .. Em là giếng nước giữa hoa viên, là hồ chứa nước nguồn từ dãy núi Libăng chảy xuống” (Sách Diễm Ca 2,1-2 / 4,12-13+15).

(Daniel-Ange, ”Les Témoins de l'Avenir”, Le Sarment FAYARD, 1989, trang 224-231)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

CHIẾC CÒNG SỐ 8

 

Trong nghi thức cử hành bí tích hôn phối, có một nghi thức rất gây ấn tượng. Đó là làm phép nhẫn và đôi tân hôn trao nhẫn cho nhau.

 

Nhìn hai chiếc nhẫn nằm bên nhau trong một chiếc đĩa, mà sao mắt tôi cứ nhoè đi, thấy nó lớn lên, chiếc nhẫn lớn lên, thành một còng số 8.

 

Khó nghe, nhưng lại đúng. Bởi. Từ nay, hai người đã bị ràng buộc vào nhau.

 

Ràng buộc trong trách nhiệm.

 

Như trong Thánh Kinh viết : “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ, để luyến ái với vợ mình”.

 

Điều ấy có nghĩa là : Một trách nhiệm mới mở ra. Trách nhiệm với người mình yêu.

Cưới một người, không phải là để người ấy phục vụ mình, hay là để cho mình được thoả mãn dục vọng; mà chính là để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Hay theo một cách nói khác,Cưới một người, là mang thêm trách nhiệm , để lo lắng, chăm sóc, hầu cho người ấy được hạnh phúc.

 

Nhưng thế nào là hạnh phúc.

 

Con người là một sinh vật thượng đẳng. Vừa có thể xác, vừa có tinh thần. Vì thế, nhu cầu của con người là vô cùng phức tạp. Rất nhiều khi, những nhu cầu của con người thay đổi và tăng lên theo môi trường, theo hoàn cảnh và mức sống. Bởi vậy, chỉ chú tâm lo lắng về mọi mặt, cũng sẽ không mang lai hạnh phúc cho cả kiếp người.

 

  1. Lo lắng về thể xác.

 

Đây là điều mà đa số các gia đình đều thể hiện. Cả vợ lẫn chồng, đều cố gắng lo cho nền kinh tế gia đình. Tần tảo, bươm chải, thâu đêm tới sáng. Lo sao cho gia đình mình sung túc. Nhưng mà, có những gia đình, chẳng bao giờ khá được, dù đã vô cùng vất vả. Khá thế nào được, khi mà người chồng tiêu xài phung phá. Hết số kiến thiết, lại đến số đề. Làm một đồng ăn hết một đồng. Khá thế nào được, khi một người vợ chỉ thích đỏm dáng. Quần áo thì đủ bộ, ăn vặt thì tối ngày. Chẳng biết chắt bóp, lại còn kèm theo sự lười biếng.

 

Vợ chồng phải bàn định với nhau, trong mọi chuyện làm ăn, để nếu có thất bại, sẽ không oán trách nhau. Vợ chồng phải biết tiết kiệm, phải biết nghĩ đến bao giọt mồ hôi vất vả, để có được đồng tiền, để luôn tiết kiệm là quốc sách. Phải nhắc nhở nhau, để đừng gian dối trong công việc làm ăn và chi xài tiền bạc.

 

  1. Lo lắng về tinh thần, về tâm lý

 

Về sống chung với nhau, tất cả mọi bí mật về thân xác đều bị tỏ lộ. Chỉ sau vài tháng chung sống. Người ta đã biết rõ nhau từ trước đến sau. Và bởi vậy, sự hấp dẫn về thân xác sẽ bị giảm dần. Và nữa, nguyên chỉ sự hấp dẫn của thân xác không thôi, không đủ, để người ta có thể gánh vác được trách nhiệm nặng nề trong gia đình.

 

Bởi đó, điều hệ trọng nhất, để tình yêu hôn nhân được bền chặt, chính là yếu tố tâm lý. Chính sự hiểu biết về tâm lý của nhau, làm cho tình yêu thêm quấn quit. Có đẹp đẽ bao nhiêu mà kém tâm lý, như không biết khen chồng, chiều chồng, không biết lo lắng quan tâm đến vợ, nói ngọt, khen tặng vợ, thì cũng làm người kia chán ngắt.

 

Phải cố gắng mỗi ngày, để tìm hiếu, để biết rõ người kia nhiều hơn. Để rồi từ đó, phải chết đi cho mình một tí, để có thể chấp nhận sự khác biệt của người kia. Phải biết rõ tính tình, ý thích của người kia, để hoặc giúp người kia sửa tốt, hoặc chính mình sửa đổi, để hai người có thể gần gũi nhau, để có thể nên một nhiều hơn, trong câu chuyện, trong công việc làm ăn. Thật là vô lý, khi cứ muốn người kia phải sửa đổi, mà chính mình quá ê chề, mà không nghĩ đến việc đổi thay.

 

Và nên một trong niềm tin

 

Cao hơn đời sống tâm lý, là đời sống đức tin. Đời sống đạo đức thiêng liêng, là cái cốt lõi để xác định giá trị một người.

 

Bởi vậy, đời hôn nhân phải rất chú ý và quan tâm đến đời sống thiêng liêng của mình và của nhau.

 

Trong hành trình sinh sống, việc làm ăn thua lỗ, việc gặp những “ xúi quẩy”, những ốm đau, bệnh tật, những lục đục vợ chồng, là điều rất đỗi thường tình.

 

Đứng trước những hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, đâu sẽ là chỗ để ta tựa nương. Chính đời sống thiêng liêng, trong niềm tin phó thác nơi Chúa, là điểm tựa duy nhất vững bền hầu có thể giúp đỡ hôn nhân có thể vượt qua.

 

Cho nên vợ chồng phải quan tâm đến đời sống đạo đức của nhau. Và chính đời sống đạo đức sâu sắc, sẽ giúp cho tình mình ngày càng bền chặt.

 

Thưa…

 

Hai chiếc nhẫn trong mắt tôi đã thành hình chiếc còng số 8 để cột chặt hai cuộc đời vào nhau. Nhưng rồi, nó lại lớn lên, thành 2 chiếc loa sắt, bảo cho mọi cô gái trên đời biết. Chàng rể hôm nay đã có vợ. bảo cho mọi chàng trai trên địa cầu biết, cô dâu đã có chồng. Xin đừng ai xớ rớ, xin đừng ai qua lại, để cho hai người mãi mãi thủy chung, để cho hai người suốt đời hạnh phúc.

 

Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm

Mục lục

 

 

Học cách kiềm chế cơn giận

 

Là một chính nhân quân tử cần phải mạnh mẽ, cứng rắn nhưng kèm theo đó cũng là một số thói quen xấu, trong đó có tật hay nổi giận. Làm thế nào để kiềm chề bản thân nhất là trong cuộc sống gia đình?

1. Công nhận sự bình đẳng

Đa phần đàn ông giận giữ vì họ quen nghĩ rằng mình có quyền làm như vậy. Bạn có thu nhập cao hơn vợ mình, bạn có vị trí xã hội cao hơn cô ấy, tên bạn luôn xuất hiện trong giấy tờ với tư cách là chủ hộ... Tất cả tạo cho bạn một suy nghĩ rằng, bạn là người có quyền lực tối thượng trong gia đình.

Tuy nhiên, thực tế lại không phải như vậy. Bạn có địa vị xã hội và thu nhập tốt hơn vợ, đơn giản là vì bạn có nhiều thời gian hơn cho công việc và cả học hành, nâng cao năng lực chuyên môn. Trong thời gian đó, vợ bạn đang bận bịu với việc chăm sóc con cái, gia đình.

Đã bao giờ bạn tự nghĩ, nếu hoán đổi vị trí cho nhau bạn có thể làm tốt như cô ấy hay không? Chính vì vậy, sẽ là rất bình thường nếu bạn có một công việc tốt hơn, nguồn thu nhập cao hơn vợ mình. Đừng bao giờ tự hào vì những điều ấy và tự cho mình những quyền lực nhất định trong gia đình.

2. Bạn đang làm gương cho con mình

Bài học lớn nhất với con cái chính là những lời nói, hành động thường ngày của cha mẹ. Nếu bạn tùy tiện nổi giận, cãi cọ, quát tháo trước mặt con cái, nhiều khả năng con bạn (đặc biệt là con trai) cũng sẽ lây nhiễm thói xấu này.

Ngay cả khi bạn có những “lý do chính đáng” để nổi giận, con bạn cũng chưa thể nào hiểu hết những điều đó. Chúng chỉ biết rằng khi gặp một vấn đề khó giải quyết chúng sẽ nổi cơn lôi đình, thậm chí quát tháo, đập phá như chính cha chúng từng làm. Chính vì vậy, hãy cư xử thận trọng trước mặt những đứa con của mình.

3. Luyện tập cách làm chủ cảm xúc

Giận dữ là một thói quen, chính vì vậy bạn cũng có thể luyện tập cách kiềm chế nó. Gặp những tình huống khó khăn, bạn đừng vội vàng quyết định bất cứ điều gì, hãy cố gắng tìm một không gian yên tĩnh để trấn tĩnh lại. Người xưa nói, vội giận mất khôn, mọi quyết định vội vàng của bạn sẽ chỉ làm mọi chuyện khó khăn thêm.

Bạn cũng cần tỉnh táo để nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, đầy đủ nhất. Đừng bao giờ chỉ nhìn nhận vấn đề theo một hướng, để rồi bạn sẽ chỉ nhận thấy sai lầm ở người khác mà không nhận ra những hạn chế ở chính mình.

4. Né tránh những tình huống nhạy cảm

Một trong những nguyên nhân khiến bạn không thể kiềm chế được cảm xúc của mình đó là tình trạng “lửa cháy đổ thêm dầu”. Bạn đang bực bội về một việc làm, lời nói của ai đó, bạn sẽ rất dễ có ấn tượng không tốt và khó lòng cư xử một cách mềm mỏng, nhã nhặn với họ. Lúc ấy, bất cứ lời nói việc làm nào của họ cũng sẽ bị bạn nhìn nhận một cách tiêu cực.

Chính vì vậy, cách tốt nhất là chưa nên tiếp xúc với họ vội. Hãy để khi cảm xúc của bạn lắng xuống, cơn giận tan đi, bạn sẽ tỉnh táo hơn để đánh giá, nhận xét mọi thứ một cách thực sự khách quan.

5. Sáng tạo trong cách giải quyết tình huống

Hãy nhớ rằng khi gặp một rắc rối sẽ có rất nhiều phương án giải quyết. Trong khi đó, nổi giận chỉ là một “phương pháp” mà thông thường, phương pháp này rất ít khi mang lại hiệu quả, thậm chí là phản tác dụng. Hãy lựa chọn những phương án giải quyết khôn ngoan, tỉnh táo hơn.

Khi bạn nổi giận, thông thường bạn sẽ đánh mất cảm tình của mọi người, kể cả người mắc lỗi gây ra rắc rối. Khi bạn bình tĩnh giải quyết vấn đề, mọi người sẽ nể phục bạn, người có lỗi sẽ hối hận và nhớ mãi sai lầm của mình.

Theo Thiên Lương (Phụ nữ Việt Nam)

Mục lục

 

ĐỌC SÁCH

DẤU CHÂN CỦA THẦY

 

 

(Lc 11,37-54)

 

Thầy kính mến,

Con đọc trình thuật của Luca, rồi đọc thêm trình thuật của Matthêu (Mt 23,1-36). Đọc xong, con phải gục mặt xuống và muốn độn thổ. Nhột quá! Sượng quá! Người ta mời Thầy ăn cơm, Thầy vào bàn ăn mà không rửa tay theo tục lệ như mọi người vẫn làm. Người ta tỏ vẻ ngỡ ngàng. Thế là Thầy mắng cho người ta một trận, như tát nước vào mặt. Mắng một người, mắng một tập thể. Mắng nhóm Pharixêu. Mắng luôn cả các ông kinh sư. Thầy giống như võ sư nổi giận, tung hết chưởng, đánh tới tấp, đánh cho địch bò lê bò càng mà vẫn chưa buông tha. Vẫn cứ đánh tiếp. Đánh mà không cho đỡ, tàn nhẫn quá chừng!

 

Con xấu hổ, con muốn thôi không yêu Thầy nữa. Nhưng vì Thầy là Thiên-Chúa-Làm-Người, nên con không thể bỏ được. Con lại nhìn, con lại ngắm và lại suy nghĩ về Thầy. Thầy là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Vậy Chúa Cha mạc khải gì qua thái độ ấy của Thầy?

 

1. Kinh sư và Pharixêu là bậc thầy của toàn dân Do Thái. Họ là cha linh hướng của mọi tín đồ Do Thái giáo. Họ là các nhà thần học, các luật gia của cả đạo lẫn đời (Đạo và Đời là một). Đi đâu cũng được mọi người chào: “Rắpbôni” (chào thầy, chào sư phụ). Đến đâu cũng được mời vào chỗ danh dự. Mọi thắc mắc

Tác phong của các thầy thì không ai chê trách được điều gì.

 

Mỗi tuần các thầy ăn chay hai ngày: thứ Hai và thứ Năm. Thầy ăn chay tức là thầy sám hối, là thầy đền tội và linh hồn thầy sạch boong.

 

Mỗi ngày thầy đọc kinh 3 lần. Lòng thầy mến Chúa Giavê được ví như keo, như sơn.

 

Các thầy dâng kính vào đền thờ mười phần trăm thu nhập hằng ngày, hằng tháng, hằng năm …

 

Các thầy luôn luôn rửa tay trước khi vào bàn ăn. Nếu đi xa về, các thầy tắm rửa toàn thân. Tắm rửa thân xác cũng là thanh tẩy cả tâm hồn. Nhất cử, mà lưỡng tiện. Tuyệt vời!

 

2. Sống đạo đức như thế, thì ai mà không thương, ai mà không trọng.  Con cũng trọng vọng các ngài và mơ ước xa xôi sống được như thế. Đang mơ ước như vậy, thì bỗng thấy Thầy nổi cơn thịnh nộ. Thầy lột phăng cái mặt nạ lấp lánh để lòi ra cái mặt thật ghê tởm. Con giật mình đánh thót một cái. Giận Thầy một chút rồi tỉnh ngộ.

 

Thầy gọi họ là bọn giả hình. Thầy ví von gọi họ là cái mộ tô vôi: bên ngoài thì đẹp quá, bên trong thì thối quá. Bản chất của giả hình là lừa gạt. Lừa gạt cả một dân tộc, cả một tôn giáo. Lừa gạt những tâm hồn đạo đức để thu lợi – lợi về danh vọng, lợi về tiền bạc.

 

Thầy gọi họ là lãnh đạo đui mù để cả hai lăn cù xuống hố. Họ thuộc lòng 613 khoản luật. Giỏi lắm. Nhưng họ không biết lấy “con người” làm mục tiêu để “luật” phục vụ. Ngược lại họ biến “con người” thành công cụ phục vụ “luật”. Thế là luật bỏ tù “con người”, nghiền nát “con người”. Họ bắt tín đồ giữ “luật” để làm nô lệ cho “luật”. Còn họ thì lấy ba tấc lưỡi để cắt nghĩa luật sao cho phù hợp với sở thích của mình. Vừa lời vừa độc.

 

Thầy mô tả họ giống như bọn người mà văn hóa dân tộc con gọi là “Nịnh trên, đả dưới”. Họ xum xoe dâng cúng tiền bạc cho đền thờ, nhưng lại bốc lột dân. Họ bảo lấy của báo hiếu cha mẹ mà dâng cho Chúa, thì được miễn bổn phận hiếu thảo. Bóc lột con người, để lấy lòng ông Trời. Trời ơi là Trời!

Thầy tố cáo họ là “Đọc kinh cho dài để nuốt trửng tài sản của các bà góa”. Đó là kinh doanh tôn giáo. Đó là kinh doanh đạo đức. Đó là kinh doanh Đấng Tạo Hóa. Y như Giuđa đã kinh doanh người nghèo (Tại sao không bán chai dầu 300 đồng để giúp người nghèo) và kinh doanh Thầy (bán Thầy lấy 30 đồng). Tội này lớn lắm. Nặng lời tới cỡ đó cũng chưa vừa. Phanh phui tới cỡ đó cũng chưa đủ.

 

Tập thể Pharixêu và kinh sư tạo nên một cơ chế, một đường lối mục vụ sai từ nguyên tắc. Nó đưa cả một dân tộc, cả một tôn giáo đi vào con đường lạc hướng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Làm tôn giáo mà sai lầm thì sai lầm ấy lớn hơn mọi sai lầm. Nó dáng bị dập phá tan tành để xây dựng một cái mới, chớ không phải chỉ sửa chữa vài chi tiết vụn vặt.

 

Thầy kính mến,

 

Bây giờ thì con hoàn toàn đồng tình với Thầy về cách chống đối và về nồng độ chống đối của Thầy đối với các ông Pharixêu và kinh sư. Cá nhân của họ không hề là đối tượng của sự chống đối này. Nhưng cơ chế của họ, nếp sống của họ, đường lối mục vụ của họ mới là mục tiêu chống phá tận tình của Thầy.

 

Nhưng thưa Thầy kính mến.

 

Trên thế giới này, từ muôn thuở về trước đến muôn thuở về sau đã có và sẽ có bao nhiêu sai lầm về tôn giáo như thế? Đã có và sẽ có bao nhiêu vị lãnh đạo tôn giáo giống như ngôi mộ tô vôi? Đã có và sẽ có bao nhiêu bà góa bị nuốt trỏng tài sản, chỉ vì bị lóa mắt trước những mẫu người sùng đạo giả tạo?

 

Con mường tượng thấy tôn giáo và công tác từ thiện vẫn bị thương mại hóa và chính trị hóa từ thời này qua thời khác, từ nơi này tới nơi kia, từ mức độ thấp đến mức độ cao.

 

Con cũng mường tượng thấy nhiều lãnh tụ chính trị, biết lợi dụng “ông Trời” để phục vụ tối đa cho danh và lợi của cá nhân. Họ đang nịnh “ông Trời” bằng cách tiêu diệt con người, y như ông Giéptê sát tế đứa con gái cưng của mình để đền ơn Giavê (Thẩm phán 12,29-40).

 

Con linh cảm rằng trên thế giới đang có những lãnh tụ tôn giáo đang ảo tưởng rằng mình là ĐẠO, rằng mình nắm gọn thánh ý của Đấng Tối Cao trong lòng bàn tay bé nhỏ của mình. Họ sẽ nhân danh Đấng Tối Cao để lên án mọi luồng tư tưởng. Họ cũng sẵn sàng sử dụng mọi phương tiện giết người để “cứu” Đấng Tạo Hóa, nhưng cuối cùng vẫn chỉ là kinh doanh tôn giáo, vẫn chỉ là Pharixêu hóa tôn giáo của mình. Thật đáng sợ! Và … hỡi ông Pharixêu, vận mệnh của thế giới sẽ đi về đâu?

 

 

Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU

Mục lục